Nếu không có vụ tranh đấu 1963 và nói một cách chung thì Phật giáo chưa có xích mích nào đáng kể đối với chính quyền Ngô Đình Diệm. (Ngoại trừ những xích mích có tính cách địa phương xảy ra tại Bình Định vào những năm 1960-1961). Trước năm 1963 Phật Giáo Việt Nam chỉ là một tập thể bao gồm những cục bộ riêng rẽ. Mà những cục bộ này cũng không được tổ chức chu đáo (vì bản chất của Phật Giáo là phi tổ chức). Tuy vậy Phật Giáo Việt Nam cũng bị ảnh hưởng sâu xa bởi sắc thái địa phương bối cảnh địa dư và nhân sự. Do đó, Phật giáo đã thể hiện rõ rệt qua ba “sắc thái sinh hoạt”: Phật Giáo Miền Nam, Phật giáo Miền Trung và Phật Giáo di cư. Phật giáo Miền Nam gồm Hội Phật Học Nam Việt (Cư sĩ Mai Thọ Truyền và Chùa Xá Lợi), Giáo Hội Tăng Già Việt Nam (Thượng Tọa Thích Thiện Hoa chùa Ấn Quang), Phật Giáo nguyên thủy (nhóm Tiểu Thừa chùa Kỳ Viên) và một số hội đoàn lẻ tẻ khác. Phật Giáo miền Bắc di cư có độ 20.000 người nhưng không tạo thành một cộng đồng. Phần nhiều Phật Tử đã đi di cư với tư cách cá nhân và bằng phương tiện cá nhân. Trong số 200.000 người có vào khoảng 50.000 sống rải rác ở các trại định cư. Khoảng 50.000 người sống tại các thị xã. Còn lại 100.000 người qui tụ tại Sài Gòn. Phật Giáo di cư tại Đô Thành đại cương có thể chia thành hai nhóm, nhóm thuộc chùa Phổ Quang và Nghĩa Trang Bắc Việt (Thượng Tọa Thích Trí Dũng). Nhóm đa số thuộc chùa Từ Quang (Thượng Tọa Thích Tâm Châu).
Riêng Phật Giáo Miền Trung được coi là một cộng đồng có tổ chức sinh hoạt từ cấp khuôn hội cho đến trung ương (tức chùa Từ Đàm). Theo thống kê trước năm 1963 Phật Giáo Việt Nam miền Trung có khoảng 40.000 người với một tổ chức thanh niên và hướng đạo Phật Tử đáng kể. Sau 1963 thì số Phật giáo miền Trung 800.000 người.
Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam do Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết làm Hội Chủ. Trên thực tế, Phật Giáo miền Trung mới là thành phần chủ lực của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết là một bậc cao tăng nổi tiếng về đức độ của con người xuất thế tu đạo. Nhưng tước vị Hội Chủ chỉ là một danh nghĩa tiêu biểu cho tinh thần hiệp nhứt cao trọng. Quyền hành xử Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam vẫn do các vị Thượng Tọa Trí Quang và Thiện Minh, xa hơn nữa là các Thượng Tọa Trí Thủ và Đôn Hậu cùng một số Thượng Tọa, Đại Đức thuộc khuynh hướng dấn thân tích cực.
Phật Giáo miền Nam trước năm 1963 luôn luôn giữ thái độ xuất thế không thân chính quyền mà cũng không chống chính quyền và cũng không hề biểu lộ một thái độ nào có mầu sắc chính trị và thời thế.
Cư sĩ chánh trí Mai Thọ Truyền không có một quan hệ đối với chính quyền Ngô Đình Diệm nhưng giữa ông và Phó TT Thơ lại có nhiều mối tương giao thân hữu.
Ngược lại, Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam miền Trung lại được coi là thân thiện và có những tương giao tốt đẹp với chính quyền Ngô Đình Diệm qua ông Ngô Đình Cẩn, chính ông Cẩn vẫn tự hào và lớn tiếng kể công với các ông anh là ông đã nắm được Phật Giáo miền Trung.
Ông Cẩn thường coi thành tích này như một điều để “bắt bí” mấy ông anh. Bất cứ một hội nghị Phật Giáo nào tại ngoại quốc, các Thượng Tọa Miền Trung phải được ưu tiên.
Do đó cũng làm cho giới chức tại Sài Gòn gặp nhiều cảnh “tréo cẳng ngỗng”. Theo Lương Khải Minh, vào khoảng năm 1960… TT Diệm đã chấp thuận một danh sách gồm mấy Thượng Tọa và Cư Sĩ đi tham dự hội nghị Phật Giáo Thế Giới. Các vị này đã được thông báo để sửa soạn làm giấy thông hành, bỗng nhiên ông Cẩn cho người đem vô Saigon một danh sách mới đòi cho bằng được phải để mấy vị Thượng Tọa miền Trung tham dự và nắm chức trưởng phái đoàn.
Ông Cẩn lấy cớ rằng: Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam do Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết làm Hội Chủ và trụ sở đặt tại Huế thì Huế mới là Trung Ương Tổng Hội. Do đó, một Thượng Tọa ở Huế phải làm trưởng phái đoàn.
Sự việc này quả khó giải quyết cho nên lại phải trình lên TT Diệm. Ông TT đáp: “Ai đi cũng vậy. Tôi nghe nói mấy ông Thượng Tọa này tốt lắm. Chắc ông cậu ở ngoài nớ đã biết rõ họ“. Có lẽ bắt nguồn từ những sự việc này nên Phật Giáo Saigon vẫn rì rầm là chính quyền không hiểu sao đã ưu đãi các Thầy ở Huế. Nhiều kẻ đa nghi lại rỉ tai nhau “Thày ấy… là người thân của ông Cẩn mà“.
Đại Úy Bằng, sĩ quan hầu cận của TT Diệm cũng xác nhận rằng: “không hiểu một lý do gì mà ông Cẩn lại quá ưu đãi và trọng vọng mấy vị Thượng Tọa ở chùa Từ Đàm“. Đại Úy Bằng nhớ lại: cũng vào khoảng năm 1960 khi tháp tùng TT Diệm về Phú Cam, ông Cẩn đã gọi ông Bằng đến dặn dò rất kỹ: “Mi về Saigon gặp ngay anh Tuyến hỏi xem tuần trước Thầy có mang thơ giới thiệu của tao đến gặp anh ấy không? Mi bảo anh Tuyến lo ngay cái vụ hồ sơ xin xuất ngoại của Thày Trí Quang” – Một lát sau, ông Cẩn lại nhắc lần nữa và biểu Bằng tin ra Huế ngay để ông biết rõ vụ giấy tờ xuất ngoại của mấy Thầy đã đi đến đâu.
Khi về Saigon, Đại Úy Bằng đến tìm BS Tuyến và nói như vậy. BS Tuyến cho biết là hồ sơ đưa qua phòng ông Hải rồi: “Có thư của ông Cậu ai mà dám chậm trễ”
Ông Ngô Đình Cẩn tỏ ra rất tự hào về mối tương quan thân hữu của ông và Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại miền Trung. Do đó, khi nhận được bức công điện cấm treo cờ tôn giáo, ông Cẩn tỏ ra tức giận không ít.
Bức công điện mang số 9195 đề ngày 6-6-1963 dl cho đến chiều ngày 6, bức công điện đó mới về đến Tòa Đại Biểu và Tỉnh đường Thừa Thiên. Văn Phòng Cố Vấn Chỉ Đạo của ông Cẩn vẫn không hay biết một chút nào. Mãi đến sáng ngày 7, người vú già của Đại Úy Minh đi chợ về, thuật lại: “Ngoài chợ đang xôn xao về việc gì đó. Đồng bào nói rằng chính phủ cấm không cho Phật giáo treo cờ”. Lúc đó Văn Phòng Cố Vấn Chỉ Đạo mới rõ và tìm cách gặp ông Cẩn để trình bày tự sự mới hay.
Ông Nguyễn Văn Đẳng, Tỉnh Trưởng Thừa Thiên vào trình bức công điện kể trên. Với sự hiện diện của Đại Úy Minh, ông Cẩn băn khoăn…
“Sao lại có chuyện lạ như thế”.
Đại Úy Minh cũng ngần ngại:
– Đồng bào các nơi đã treo hết cờ cả rồi. Bây giờ làm thế nào được.
Ông Đẳng lo ngại:
– Thưa nếu thi hành bức công điện này, con thấy lôi thôi lắm.
Ông Cẩn bảo Đại Úy minh hỏi tòa Đại Biểu xem thế nào và yêu cầu xác nhận bức công điện có phải đúng như thế không? Cầm bức công điện trên tay ông Cẩn vẫn chưa tin là thực. Ông Cẩn nhắc đi nhắc lại “Quyết định cái gì mà lại lạ lùng như vậy”.
Trong thời gian này, ông Ngô Đình Cẩn đang bị thất sủng. TT Diệm không còn tín nhiệm ông em như trước nữa. Trên thực tế, kể từ ngày Đức Cha Ngô Đình Thục trở về Huế thì uy tín ông Cẩn bắt đầu xuống dốc dần dần… TT Diệm đã quyết định bãi bỏ Văn Phòng Cố Vấn Chỉ Đạo từ đầu năm 1963 (cho đến tháng 10 năm 1963 tt Diệm mới dứt khoát bãi bỏ Văn Phòng Cố Vấn Chỉ Đạo có nghĩa ông Cẩn bị loại ra khỏi chính trường Miền Trung)
Bức công điện trên đây ông Cẩn chỉ được biết sau khi ông Đằng mang vào. Ông Cẩn bảo Tỉnh Trưởng Thừa Thiên:
“Đồng bào người ta treo cờ rồi thì cứ để nguyên như vậy đừng có ra lệnh hạ gì cả”. Ông Cẩn lại bảo ông Hồ Đắc khương, Đại Biểu Chánh Phủ Trung Nguyên Trung Phần, đánh điện vào Trung Ương xin hoãn thi hành bức công điện “kỳ quái” này.
Một viên chức có mặt tại nhà ông Cẩn lúc ấy đều đồng ý phải hoãn thi hành lệnh trên và cứ để đồng bào Phật tử treo cờ như mọi năm. Đai Úy Minh bàn luận với một số viên chức: “Tại sao không ra lệnh từ trước mà mãi đến bây giờ mới ra lệnh. Vụ này kẹt cho tụi mình lắm. Các anh tính sao?”
Ông Cẩn thắc mắc hỏi ông Đẳng và Hoàng Trọng Bá: “Các Thày dưới Từ Đàm đã biết chưa?” Thực ra, các Thày cũng như một số đông Phật tử biết tin từ tối hôm trước.
Tất nhiên là phải có một viên chức nào ở Tòa Tỉnh đã tiết lộ bức công điện trước khi thông báo cho ông Cẩn.
Sau một hồi thảo luận, cân nhắc ông Cẩn bảo Tỉnh Trưởng Thừa Thiên: “Chú cho mấy xe thông tin nó đi thông báo gấp cho đồng bào hay là không có gì thay đổi. Đồng bào cứ treo cờ như mọi năm”.
Ông Cẩn đồng thời căn dặn Đại Úy Minh cũng như Hồ Đắc Khương, Hoàng Trọng Bá phải thận trọng hết sức và làm thế nào để tránh những chuyện đáng tiếc có thể xảy ra. Mặt khác Văn Phòng ông Cẩn cũng chỉ thị cho giới chức Cảnh Sát thành phố Huế không được hạ cờ của đồng bào.
Nói về ông Ngô Đình Cẩn và Phật giáo, Thượng Tọa Mật Nguyện (thuộc phái Ấn Quang) cho rằng, trong chín năm chế độ Ngô Đình Diệm, không hiểu trong lòng như thế nào nhưng ngoài mặt, ông Cẩn tỏ ra thân thiết và tin cậy các Thầy trong Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam (tại Huế). Qua bức công điện cấm treo cờ, thái độ ông Cẩn ngay từ phút đầu là sửng sốt tức giận. Ông Cẩn than thở với mấy thuộc viên thân cận: “làm như rứa tao còn mặt mũi nào nói chuyện với người ta” (tức là các Thầy tại chùa Từ Đàm)
Buổi trưa ngày 7, ông Cẩn trầm ngâm một cách khó hiểu, ông uống một hơi hết ly rượu lễ và cho gọi ông Minh vào để tìm hiểu tình hình Huế cho đến giờ phút này vẫn không hề xao động.
Cả một thành phố như rừng cờ. Số lượng cờ Phật Giáo như càng tăng thêm. Vào buổi chiều ông Cẩn nhận được báo cáo cho biết khoảng 8:30 sáng (khi Nguyễn Văn Đẳng vào trình bức công điện) thì lại có mấy Cảnh Sát viên trong Thành Nội kéo nhau đi hạ cờ tại mấy nhà đồng bào và đã có sự dằng co xô xát. Sau đó được thu xếp êm ngay. Huế nơi nơi như bừng sống như đang vươn cao trong hương hoa ngào ngạt. Không khí như ngày hội hoa đăng và như tất cả dành riêng cho ngày Phật giáng thế.
Ông Nguyễn Hữu Cang, một trong những chiến sĩ trong vụ Phật giáo Huế 63 đã kể lại cho chúng tôi: “Sáng ngày 7 trong giới đồng bào và các khuôn hội đã xôn xao lắm. Nhất là chúng tôi lại được tin cho biết chính Đức Cha Ngô Đình Thục đã về tận Saigon thúc đẩy ông Ngô Đình Nhu ra lệnh “triệt hạ” Phật Giáo. Do đó lại càng khiến mọi Phật tử sôi động, bất mãn” Nguyễn Hữu Cang cho biết thêm: “trưa ngày 7, khi được tin chính quyền cho Cảnh Sát đi hạ cờ và xé cờ Phật Giáo tại mấy khuôn hội thì dư luận lại càng thêm sôi nổi phẫn uất. Nhất là giới bạn hàng chợ Đông Ba. Có thể nói giới bạn hàng này mới là thành phần đi tiên phong trong vụ tranh đấu kể từ ngày 7 chứ không phải chỉ riêng ngày 8”.
Nguyễn Hữu Cang cũng công nhận rằng: “anh có nghe thấy xe thông tin đi loan báo là đồng bào cứ treo cờ như thường lệ. Tuy nhiên lúc bấy giờ bao nhiêu dồn nén trong quần chúng được khơi dậy và chỉ chờ đợi giây phút nổ tung”.
Các hội đoàn và quân đội đều nhận được mọt lệnh sửa soạn dể tranh đấu đòi quyền bình đẳng tôn giáo, đối tượng cho sự đấu tranh như vậy quả là hấp dẫn và dễ dàng lôi cuốn được mọi giới Phật Tử.
Khoảng 6 giờ chiều, một số công chức tòng sự tại Tòa Đại Biểu không đến Tòa Hành Chánh Thừa Thiên và ở đây cũng có một số công chức thuộc Tỉnh Đường tụ tập bàn tán xôn xao về bức công điện cấm treo cờ, đồng thời cũng vào khoảng một ngàn đồng bào cùng với một số đông Thượng Tọa Đại Đức kéo đến Tòa Hành Chánh để tỏ thái độ trong đó có Thượng Tọa Đôn Hậu, Trí Quang.
Không khí lúc ấy đã nhuốm mầu tranh đấu. Anh Nguyễn Hữu Cang cũng có mặt trong đó. Ngày nay tuy đã quên nhiều chi tiết nhưng anh vẫn còn giữ nguyên giây phút ngọn lửa hồng cháy rực. Anh nói: “Khi nghe tin cờ Phật bị xé tôi có cảm tưởng như chính tổ tiên mình bị chính quyền chà đạp. Lúc ấy dù có phải chết cho đạo pháp tôi cũng bằng lòng.”
Trong một không khí sôi động như vậy Thượng Tọa Trí Quang xuất hiện cùng với mấy Thượng Tọa khác như Thượng Tọa Trí Thủ, Thiện Minh.
Về phía chính quyền thì có ông Tỉnh Trưởng Nguyễn Văn Đẳng, ông Phó Tỉnh Trưởng Hành Chính, ông Phong Trưởng Ty Cảnh Sát thành phố Huế… Lát sau, Thiếu Tá Đặng Sỹ – Phó Tỉnh Trưởng Nội An lái xe đến. Ông này mới đi hành quân về từ chiều ngày 6. Khi được cấp báo đồng bào Phật tử đang biểu tình ở Tỉnh Đường, Thiếu Tá Sỹ vội vã lái xe đến.
Lúc ấy Thượng Tọa Trí Quang với một vẻ xúc động mạnh, lên tiếng gay gắt phản đối bức công điện cấm treo cờ tôn giáo. Ông Đẳng cho các Thượng Tọa biết chính quyền đã hoãn thi hành bức công điện này và xin các Thượng Tọa cứ an tâm. Mọi sự đều như mọi năm không có gì thay đổi.
Tuy vậy, Thượng Tọa Trí Quang vẫn giữ vẻ tức giận và lên tiếng phản đối chính quyền Thừa Thiên tại sao sáng 7 đã cho Cảnh Sát hạ cờ Phật giáo và tại một vài nơi Cảnh Sát xé cờ Phật giáo.
Ông Đẳng quay sang hỏi ông Phong Trưởng ty cảnh Sát xem sự thể hư thực thế nào. Ông Phong lên tiếng: “Tôi quả quyết không có chuyện đó”. Ông Phong lại nhấn mạnh thêm: “Tôi quả quyết với các Thày không có chuyện xé cờ” Thiếu Tá Sỹ lên tiếng: “Nếu có chuyện xảy ra như vậy xin Thày cho biết rõ nơi nào Cảnh Sát đã xé cờ tôi sẽ cho điều tra và trừng trị ngay”.
Ông Phong lại một lần nữa quả quyết không có chuyện như vậy. Ông Phong xin Thượng Tọa Trí Quang nêu lên một vài chứng cớ. Thượng Tọa Trí Quang đáp: “Tôi nghe đồng bào Phật Tử nói như vậy”.
Ông Phong lại thỉnh cầu: “Xin Thày cho biết rõ nơi xảy ra chuyện. xé cờ thuộc về khuôn hội nào, khu phố nào để chúng tôi mở cuộc điều tra”.
Thượng Tọa Trí Quang lắc đầu không tiết lộ và nói đại ý:
“Tôi không thể cho các ông biết rõ được. Tôi cho các ông biết để rồi Công an Cảnh sát đến làm phiền đồng bào Phật tử rồi tính sao đây”?
Cuối cùng Thượng Tọa Trí Quang tỏ vẻ lo ngại: “Hiện nay chúng tôi rất hoang mang không hiểu chính quyền sẽ đàn áp chúng tôi khi nào?”
Ông Nguyễn Văn Đẳng vẫn “xuống nước” thỉnh cầu các Thượng Tọa yên tâm trở về chùa và ngày mai mọi sự sẽ tiến hành tốt đẹp như mọi năm. Thượng Tọa Trí Quang vẫn lo ngại: “Mai này đồng bào Phật Tử sẽ tổ chức rước kiệu chúng tôi đã sửa soạn đâu vào đấy cả rồi chúng tôi rất hoang mang”.
Hai bên chính quyền và các Thượng Tọa cứ vòng vo bàn cãi cuối cùng chính quyền Thừa Thiên phải nhượng bộ bằng cách gọi điện thoại ngay cho ông Trưởng Ty Thông Tin cho ba xe có máy phòng thanh đến Tòa Tỉnh. Ông Nguyễn Văn Đẳng đề nghị các Thượng Tọa cho cán bộ Phật Tử của mình đi theo xe và chính các cán bộ này chia nhau đi khắp khu phố để loan báo cho đồng bào rõ ngày 8-5 sẽ không có gì thay đổi, đồng bào cứ đi hành lễ như chương trình đã ấn định. Kết quả các Thượng Tọa cũng bằng lòng như vậy. Khoảng 9 giờ đêm đám đông mới giải tán và mọi chuyện tưởng đã được giải quyết tạm thời êm đẹp. Ba xe Thông tin chia nhau đi vào các khu phố để làm phận sự như chính quyền và các Thượng Tọa đã thỏa thuận.
NGÀY LỊCH SỬ 7-5-1963 (âm lịch)
Không một người Việt Nam nào có thể ngờ rằng, ngày ấy và bức công điện ấy đã cắm một cái mốc khởi điểm cho một tấm thảm kịch bi thương nhất của lịch sử Việt Nam.
Trần Khôi hồi tưởng lại những ngày khi ông ra Huế thanh tra trước ngày 8-5 khoảng mấy ngày. Bây giờ nghĩ lại ông Khôi chợt bàng hoàng về một sự trùng hợp như là ngẫu nhiên và tự hối. Người Mỹ muốn gì ở Việt Nam?
Vốn quen biết với Đại Tá Conein trong thời gian thuộc Bộ Nội Vụ trước khi ra Huế, Khôi tình cờ gặp lại Conein. Ông Conein khoe:
– Do sự thuyết phục của tôi, TT Diệm mới chịu thi hành dân chủ tại ấp xã.
Kể từ ngày đó xã ấp đều do dân chúng trực tiếp bầu theo lối phổ thông đầu phiếu.
Biết rõ bản tính Conein nên ông Khôi nghĩ bụng “Thằng cha thuộc loại nói dóc tay tổ”. Conein còn nói thêm:
Chính phủ VNCH còn phải thi hành nhiều cải tổ quan trọng nữa mới thắng được Cộng sản. Chính quyền này thiếu dân chủ. Rồi Conein lại nhấn mạnh: “Tôi có cảm tưởng Chính phủ Việt Nam là chính phủ của những người Công Giáo.”
Anh ra Huế thì biết. Tôi sẽ giới thiệu anh với Johnson, đàn em của tôi đang giúp Hoàng Trọng Bá huấn luyện lực lượng Nhân Dân Võ Trang. Conein nói với Khôi như một lần giải bày bày tâm sự:
– Dư luận Mỹ đang bất lợi cho Việt Nam, muốn chống CS thì phải huy động lực lượng Phật Giáo không phải chỉ một chính quyền Công Giáo. Phật Giáo sẽ (saboter) chính phủ.
Ông ra Huế thì biết ở đó chỉ là một vương quốc của Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục (Empire de l’archevèque Ngô Đình Thục).
Ông Khôi lấy làm lạ lùng về thái độ của Connei, một người Mỹ đã có kinh nghiệm gần 30 năm tại Việt nam không hiểu suy luận từ một sự kiện nào. Conein lại nhất đán cho rằng chính quyền Ngô Đình Diệm là một chính quyền của người Công Giáo. Ông Khôi biết bụng vậy thôi và khi ra Huế đúng vào dịp Huế đang tưng bừng đón Phật Đản và đồng thời đang sôi động về bức công điện cấm treo cờ.
Theo lời Trần Khôi, quan sát ngay tai chỗ về vụ nổ ở Đài Phát Thanh Huế sẽ không đủ cho ta những lập luận có thể tin được là CIA hay CS đã nhúng tay vào biến cố 8-5. Nhưng về phía Mỹ, qua những cuộc đối thoại trao đổi thì ta lại dễ dàng cảm thấy (bằng trực giác) là Mỹ đã có thể nhúng tay và qua nhiều ngẫu nhiên trùng hợp thì quả là người Mỹ đã “ra tay hành động”.
Buổi tối 7-5, ông Khôi được mời dùng cơm tại nhà một viên chức Mỹ. Trong bữa cơm đó, ông gặp Johnson, ông Phó Lãnh sự Mỹ, một Bác Sĩ người Đức tại trường Đại Học Y Khoa Huế và một người Việt Nam tự giới thiệu là Giáo Sư trường Đại Học Văn Khoa Huế. Khôi ngồi cạnh Johnson, ông ghi nhận rằng Johnson là một người Mỹ tốt, ông Khôi không thấy Johnson khen chê chính quyền. Nhưng luận điệu của ông Phó Lãnh Sự Mỹ cũng tương tự như Conein. Đề cập đến Phật Giáo, ông Phó Lãnh Sự Mỹ nói đại ý:
– Phật Giáo là lực lượng rất lớn lao. Nhưng Phật Giáo không tham gia vào công cuộc chống Cộng nên chính phủ VN không mở rộng cho Phật Giáo tham dự.
Nghe nói như vậy, ông Khôi phản đối:
– Quan niệm của ông Phó Lãnh Sự có phần không đúng. Tôi là Phật giáo . Ông Tỉnh Trưởng ở đây, ông Tướng Tư Lệnh vùng cũng đều là Phật Giáo. Phó Tổng Thống cũng là Phật Giáo. Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng cũng là Phật Giáo.
Ông Phó Lãnh sự mỉm cười không đáp. Một lát sau, viên chức Mỹ Warren Smith lên tiếng công kích nặng nề việc làm của Nha Công Tác Miền Thượng. Viên chức Smith cho rằng chính quyền Việt Nam đang thực hiện kế hoạch VN hóa và Công Giáo hóa tất cả đồng bào Thượng và nhất là Nha này đã xâm phạm chủ quyền Vương Quốc Lào và quyền “tự quyết” của các sắc tộc Thượng.
Bữa cơm hôm đó, các viên chức Mỹ, Smith và nhất là ông Phó Lãnh sự đã công kích chính quyền Ngô Đình Diệm khá mạnh mẽ về vấn đề Phật Giáo. Đề cập đến vụ biểu tình tại Tòa Tỉnh Trưởng Thừa Thiên chiều mùng 7, ông Phó Lãnh Sự Mỹ cho rằng: “Nếu chính quyền Ngô Đình Diệm không chịu “liên hiệp” (?) với Phật Giáo tham chánh thì Phật Giáo sẽ đứng lên tranh đấu”.
Cũng từ ngày 7- 5, có một người Mỹ ở Đà Nẵng cấp tốc ra Huế. Đó là Đại Úy Scott. Tất nhiên là không ai để ý đến ông ta.
Nhưng Đại Úy Scott ra Huế để thực hiện một công tác trọng đại có thể do Trung Ương Tình Báo Mỹ trao phó cho ông ta.
(Năm 1965, Đại Úy Scott trở thành sĩ quan cố vấn của Tiểu Đoàn 1/3 Sư Đoàn 1 BB. Trong cuộc hành quân tại vùng Nam Đồng, Scott trong lúc đau buồn bất mãn tiết lộ công tác mà ông đã thực hiện ngày 8-5-1963)
Tại Sài Gòn , không có một chuyện đáng tiếc nào xảy ra trong hai ngày 7, 8. Sáng ngày 8, Lương Khải Minh được mấy người bạn cho biết, phía bên chùa Xá Lợi đang có chuyện bất mãn với chính quyền về vụ cấm treo cờ Phật Đản. Lúc ấy ông ta mới hay và rất ngạc nhiên.
Lương Khải Minh thầm nghĩ: “Trong tình thế này cấm đoán làm chi cho dù là hợp lý. Vụ cờ Vatican rồi vụ cờ Phật Giáo, chế độ càng ngày tạo thêm mâu thuẫn.”
Và Cộng Sản thì chỉ mong có thế. Sáng sớm, Thượng Tọa Trí Dũng và một vị Thượng Tọa khác có lại thăm Bác Sĩ Tuyến tại nhà riêng và yêu cầu ông can thiệp làm thế nào để chính quyền đình chỉ thi hành bức công điện cấm treo cờ. BS Tuyến gọi điện thoại hỏi ông Đoàn Thêm (Đổng Lý Văn Phòng Bộ PTT) Ông Đoàn Thêm xác nhận là có bức công điện đó và do nơi ông Đổng Lý PTT Quách Tòng Đức gởi đi (ông Quách Tòng Đức thi hành khẩu lệnh của TT Ngô Đình Diệm).
Sự việc đã xảy ra như vậy, biết làm thế nào?
Tại Saigon, Lương Khải Minh tự động giải quyết theo đường lối tình cảm cá nhân. Quận 3 là nơi tập trung rất nhiều chùa chiền và là những chùa lớn như Xá Lợi, Kỳ Viên… Từ tư thất, BS Tuyến gọi Trung Tá Phó Đô Trưởng Nội An và ông Cảnh Sát Trưởng Quận 3 (bây giờ là cò Kính) và yêu cầu hết sức thận trọng “nơi nào đã treo cờ rồi cứ để yên đó đừng cho Cảnh Sát hạ cờ xuống. Nơi nào đồng bào Phật tử chưa treo thì tìm lời nói khéo léo với họ xin thông cảm”.
Nhờ sự sốt sắng và quan tâm của Cảnh Sát thuộc 7 quận Đô Thành cho nên vụ cờ Phật Giáo đã không gây ra những chuyện đáng tiếc tại Sài Gòn. Lễ Phật Đản cử hành như mọi năm.
BÀI THUYẾT PHÁP NẢY LỬA
Ngày 8-5, từ sớm tinh mơ, Huế đã trở mình thức dậy giữa một rừng cờ. Đồng bào Phật Tử trong khắp thành phố nhất tề áo quần bảnh bao sửa soạn kéo nhau về Chùa Từ Đàm dự đại lễ. Anh Nguyễn Hữu Cang trong một tâm trạng náo nức.
Nguyễn Hữu Cang đã được bạn rỉ tai từ hôm trước là sáng nay có thể chính quyền đàn áp Phật Tử và ngăn chặn không cho rước kiệu Phật. Song cũng vì nguồn tin như vậy nên số Phật Tử đi dự lễ càng đông hơn và càng hăng say.
Từ 8 giờ trên các ngả đường thành phố Huế tấp nập những người, từ Đập Đá, từ An Cựu, từ Gia Hội, từ Diệu Đế… Hàng ngàn Phật Tử rước kiệu Phật tiến về Lễ Đài thiết lập tại Chùa Từ Đàm.
Khoảng 9 giờ, Đại Úy Minh vào gặp ông Cẩn và tin cho ông Cẩn hay, mọi chuyện rước sách đã diễn ra rất tốt đẹp.
Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm cũng như ông Đại Biểu Hồ Đắc Khương, ông Tỉnh Trưởng Nguyễn Văn Đẳng đều khăn đóng áo dài đến chùa Từ Đàm dự lễ vừa với tư cách chính quyền vừa với tư cách Phật Tử.
Trước đó, một đoàn người ước chừng 500 từ Gia Hội rước Phật qua Từ Đàm, khi đi ngang Tòa Đại Biểu thì dừng lại, năm bảy chiếc biểu ngữ được dương lên. Không khí bắt đầu sôi nổi.
Trong số biểu ngữ đó có khẩu hiệu như là đòi chính quyền thực thi quyền Bình Đẳng Tôn Giáo và lên án kỳ thị Tôn Giáo.
Đoàn người dừng lại một lúc lâu có nhiều tiếng la ó và đả đảo. Sau đó đoàn người lại thẳng bước tiến về lễ đài. Theo Nguyễn Hữu Cang thì hôm ấy, thanh niên và hướng đạo Phật tử đã nhận được lệnh là luôn luôn đề cao cảnh giác và chính quyền có thể đàn áp bất cứ lúc nào.
Trong buổi lễ Thượng Tọa Trí Quang đăng đàn thuyết giảng. Bao nhiêu ngàn Phật Tử im lặng như tờ. Phật tử vừa thích thú vừa hồi hộp vừa ngạc nhiên, Thượng tọa Trí Quang nói hay quá hấp dẫn và nồng nàn. Thượng Tọa lên tiếng công kích chính quyền rất nặng nề và tố cáo sự kỳ thị tôn giáo, bất bình đẳng tôn giáo. Tóm lại, bài thuyết giảng đó vừa công kích chính quyền vừa có tính cách kêu gọi Phật Giáo tranh đấu cho Phật Pháp và “đòi quyền bình đẳng tôn giáo”
Tội nghiệp cho ba “ông lớn” của chính quyền một phen “rụng tim”. Ba “ông lớn” thất sắc đưa mắt nhỉn nhau và đành lắc đầu chịu trận. Thiếu Tướng Nghiêm cho rằng Thầy Trí Quang công kích chính quyền quá nặng, đang dự lễ chả lẽ ông bỏ ngang ra về. Bài thuyết giảng của Thượng Tọa Trí Quang được cơ quan an ninh thu băng.
Khi tan lễ, Thiếu Tướng Nghiêm cũng như ông Đẳng và ông Khương cùng kéo nhau đến tư dinh ông Cẩn và mỗi người lần lượt trình bày về nội dung bài thuyết pháp của Thượng Tọa Trí Quang. Ông Cẩn thắc mắc nói với mọi người: “Tại sao Thầy Trí Quang lại cư xử với mình như vậy?” Có thể nói, ông Cẩn ngạc nhiên về bài thuyết pháp của Thượng Tọa Trí Quang. Lúc đầu nghe nói ông vẫn không tin “làm gì có chuyện đó”. Mãi lúc sau khi nghe hết cuộn băng, ông Cẩn chỉ lắc đầu, than như bọng.
Về phía đồng bào Phật Tử tinh thần bỗng lên cao và càng thêm hăng say nhờ bài thuyết pháp của Thượng Tọa Trí Quang.
Theo Nguyễn Hữu Cang, sau khi nghe Thượng Tọa Trí Quang thuyết pháp như vậy, anh cũng như bạn bè anh và nhất là giới Phât Tử lao động và học sinh, sinh viên bỗng nhiên cảm thấy phẫn uất và thấy cần phải làm một cái gì. Cơn giông tố bắt đầu nổi lên.
Vào khoảng 7 giờ 30, đồng bào tụ tập tại chùa Từ Đàm chen chân không nổi. Bỗng nhiên ban tổ chức cho biết, chương trình được thay đổi và không có đốt pháo bông như đã dự định.
Đồng bào được mời về tập trung tại Đài Phát Thanh phía cầu Tràng Tiền. Ban tổ chức cho biết đồng bào hãy tập trung quanh vùng Morin, để đón đoàn xe hoa từ Đà Nẵng ra tham dự. Đồng bào Phật Tử lại chen nhau đổ xô về địa điểm đã định. Ai nấy đều nao nức, mong chờ đoàn xe hoa từ Đà Nẵng tiến ra.
Tại Đài Phát Thanh, ông Quản Đốc Ngô Ganh đang sửa soạn để phát chương trình Lễ Phật Đản vào lúc 8 giờ 15. Chương trình đã thu thanh từ trước và đã được kiểm duyệt theo thể lệ chung. Linh tính cho ông biết có lẽ sắp có chuyện gì chẳng lành. Đồng bào tập trung quanh Đài Phát Thanh đông quá sức tưởng tượng. Nhân viên của đài vẫn yên trí làm việc vì cho rằng đồng bào đến để nghe phát thanh chương trình đặc biệt về Lễ Phật Đản, giản dị chỉ có thế thôi.
Nhưng sau đó, có mấy ông Thượng Tọa, Đại Đức và một số thanh niên Phật tử vào thẳng văn phòng ông Quản Đốc yêu cầu được thay đổi chương trình phát thanh. Thay vì cho phát thanh chương trình đã được thu thanh kiểm duyệt, Ban Tổ Chức yêu cầu ông Quản Đốc cho truyền thanh trực tiếp buổi lễ ban sáng kể cả bài thuyết pháp của Thượng Tọa Trí Quang mà ban tổ chức đã thu băng. Quản Đốc Ngô Ganh từ chối với lý do ông chỉ được phép cho truyền thanh những cuộn băng nào đã được kiểm duyệt còn vấn đề trực tiếp truyền thanh buổi lễ thì ông không thể thỏa mãn. Ban tổ chức cương quyết đòi hỏi phải được truyền thanh theo chương trình trong cuốn băng của Ban tổ chức. Bên ngoài Phật tử và đồng bào tập trung mỗi lúc một đông và tựa như từng lớp sóng người trong vùng biển động.
Ngô Ganh điện thoại cho từng cấp liên lạc để báo cáo sự tình. Đôi bên vẫn dằng co.
Về phía chính quyền từ lúc 5 giờ chiều, cơ quan an ninh đã nhận được nguồn tin mật là tối nay các Thày sẽ làm áp lực buộc Đài Phát Thanh phải cho trực tiếp truyền thanh cuộn băng ghi lời thuyết pháp ban sáng của Thượng Tọa Trí Quang – Thiếu Tá Đặng Sỹ Phó Tỉnh Trưởng Nội An đi tìm ông Tỉnh Trưởng để tường trình nội vụ. Nhưng ông Sỹ không làm sao tìm ra ông Đẳng. Ông Sỹ cho người đến nhà vợ nhỏ ông Đẳng cũng không thấy ông đâu.
Cuối cùng Thiếu Tá Sỹ đến văn phòng ông Cẩn thì lúc ấy ông Lê Văn Đạm (Đổng lý Tòa Đại Biểu) và ông Đẳng cũng vừa tới. Ông Sỹ trình bày qua loa về hiện tình, ông Đẳng cho biết ông đã gặp Thượng Tọa Trí Quang và nói: “cứ yên trí không có chuyện gì đâu. Sau đó hai ông Đạm và ông Đẳng vào gặp riêng ông Cẩn. Ông Cẩn cho rằng: “Nếu có rứa thì sao bây chừ… vậy cố gắng sao nói với Thầy Trí Quang bỏ qua đi”
Tình hình Đài Phát Thanh lúc ấy hết sức căng thẳng. Đồng bào Phật Tử đã tràn vào tới sân, nhiều tiếng la lối, hò hét. Ngô Ganh gọi điện thoại cho Thiếu Tá Sỹ cầu cứu. Thiếu Tá phải can thiệp gấp, họ chiếm đài bây giờ đây này. Rồi cứ năm phút Thiếu Tá Sỹ lại nhận được điện thoại của Ngô Ganh. “Thiếu Tá không can thiệp gấp thì họ chiếm Đài, họ giết tôi đó”. Ông Sỹ cũng không biết làm thế nào, đành trấn an Ngô Ganh: “Anh cứ yên trí, không sao đâu, tôi ra ngay”. Sự thực lúc ấy Thiếu Tá Sỹ cũng như văn phòng ông Cẩn cũng chưa biết giải quyết như thế nào cho êm đẹp.
Tình thế quá gấp rút, ông Nguyễn Văn Đẳng bảo Thiếu Tá Sỹ “bây giờ chỉ còn cách giải tán, Thiếu Tá lo dùm tôi đi”.
Ông Sỹ trả lời: “Tôi làm ngay nhưng ông Tỉnh Trưởng cho lệnh đã”. Ông Đẳng có vẻ mất bình tĩnh. Tin tức cho biết, Đài Phát Thanh có thể mất đến nơi. Ông Đẳng bào Thiếu Tá Sỹ “Thiếu Tá lo gấp dùm tôi. Ký một giấy chứ hàng trăm giấy tôi cũng ký”. Thiếu Tá Sỹ ngần ngại : “Tôi thi hành lệnh giải tán với tư cách nào? Phó Tỉnh trưởng nội an hay Tiểu Khu Trưởng?” Ông Đẳng chưa biết trả lời sao thì ông Sỹ giải thích: “Nếu với tư cách Phó Nội An thì tôi chỉ có một ít Cảnh Sát, công an và hai đại đội địa phương quân”. Ông Đẳng vui vẻ: “Thiếu Tá thi hành theo tư cách tiểu khu trưởng đi”. Ông Đẳng không quên vấn đề giấy tờ và nói: “Thiếu Tá về Tiểu khu làm giấy tờ đi rồi tôi ký sau”. Theo dụ 57. Tỉnh Trưởng ngoài chức Trưởng hành chính còn giữa trách nhiệm trưởng an ninh lãnh thổ. Như vậy, giải tán cuộc biểu tình tại Đài Phát Thanh đều thuộc thẩm quyền tối thượng của Tỉnh Trưởng Thừa Thiên.
Sau khi nhận lệnh của ông Đẳng, Thiếu Tá Sỹ gọi điện thoại về Đà Nẵng trình nội vụ lên Thiếu Tướng Nghiêm Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật. Tướng Nghiêm tỏ vẻ lo lắng và ra lệnh cho ông Sỹ “Anh phải lo giải tán ngay còn chần chờ gì nữa… Nếu họ chiếm được Đài Phát Thanh, Việt Cộng nó lợi dụng phá Đài rồi làm sao đây?” Thiếu Tá Sỹ trình bày: “hiện nay Tiểu Khu Thừa Thiên không có đủ phương tiện, xin Thiếu Tướng cho phương tiện “. Thiếu Tướng Nghiêm đồng ý cho Tiểu Khu Thừa Thiên được xử dụng phương tiện thuộc khu và vùng chiến thuật đặt dưới quyền Tư Lệnh của Thiếu Tướng Nghiêm.
Như vậy là đã có sự đồng ý của ông Vùng. Thiếu Tá Sỹ gọi điện thoại xin lệnh của ông Tư Lệnh Sư Đoàn I Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu XI chiến thuật. Đại Tá Đỗ Cao Trí đã bay về Sài Gòn từ chiều và chỉ còn Trung Tá Lê Quan Hiền Tư Lệnh Phó . Sau khi trình bày nội vụ, Thiếu Tá Sỹ xin lệnh và ý kiến thì Trung Tá Hiền sốt sắng đồng ý ngay: “Tôi cho anh xử dụng đại đội Thiên Hổ” Đại đội trừ bị của Sư Đoàn I nổi tiếng là thiện chiến do Thiếu Úy Phú làm Đại Đội Trưởng. Thiếu Tá Nguyễn Hộ Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn cũng có mặt tại Bộ Tư Lệnh cũng đồng ý để ông Sỹ xử dụng lực lượng trừ bị của Sư Đoàn. Thiếu Tá Nguyễn Hộ bảo ông Sỹ: “Anh cứ làm đi, Thiếu Úy Phú đến trình diện anh ngay bây giờ”
Thiếu Tá Sỹ lại gọi điện thoại cho Thiếu Tướng Nghiêm báo cáo diễn tiến của nội vụ. Ông Nghiêm ra lệnh: “Phải lo giải tán gấp đi. Tôi cho anh Đại Đội khóa sinh C1 và một Đại Đội Thiết Giáp đang hành quân tại Phú Lộc” Hai đại đội này đều trực thuộc cấp vùng. Thiếu Tá Sỹ trở về Tiểu Khu Thừa Thiên và gọi điện thoại cho Thiếu Tá Vĩnh Biểu (chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Phú Bài): “Anh cho tôi xin một Đại Đội, anh cho lên Tiểu Khu gấp, Thiếu Tướng đã nói gì với anh chưa? ” Thiếu Tá Biểu xác nhận được lệnh của Thiếu Tướng Nghiêm qua Đại Úy Thiết, Chánh văn phòng của Tư Lệnh Vùng I.
Thiếu Tá Vĩnh Biểu cho biết là đại đội khóa sinh C1 đang sửa soạn lên xe trực chỉ tiểu khu. Kể từ lúc này Thiếu Tá Sỹ đã có một lực lượng khá hùng hậu gồm đại dội Thiên Hổ, Đại đội C1, đại đội Quân Trấn, chi đội cơ giới Bảo An (do Trung Úy Kỳ chỉ huy, sau năm 63 ông Kỳ bị bắn chết một cách rất ly kỳ sẽ nói vào đoạn sau), Đại đội Thiết Giáp và một số Hiến Binh Quân Cảnh thuộc Quân Trấn.
Bộ Tham Mưu của ông Sỹ có mặt Đại Úy Lê Nguyên Phu (Tiểu Khu Phó) Đại Úy Nguyễn Kinh Lược (Tỉnh Đoàn Trưởng Bảo An) Đại Úy Lê Duy Hiền (Tham mưu trưởng).
Tuy đã nhận được lệnh đầy đủ từ ba phía liên hệ (Tỉnh Trưởng, Vùng, Khu Chiến Thuật) ông Sỹ cũng như các sĩ quan hiện diện đều băn khoăn do dự. Riêng ông Sỹ lại khó xử hơn cả vì ông mắc vào hai cái kẹt: là một tín đồ Thiên Chúa Giáo, gia đình bên vợ lại là Phật Giáo (bà mẹ vợ ông Sỹ thuộc hàng tu tại gia và thọ giới trai). Các sĩ quan hiện diện đều đồng ý là phải hết sức thận trọng, đây là vấn đề thuộc phạm vi tôn giáo vì dù có giải tán một cách êm đẹp cũng vẫn bị mang tiếng là đàn áp. Nếu thất bại để mất Đài Phát Thanh thì hậu quả sẽ không biết như thế nào.
Các đơn vị đã tập họp đầy đủ tại sân tiểu khu, ông Sỹ ra trước hàng quân giải thích cho quân nhân các cấp rõ và ra lệnh dùng súng Garant tay cầm ngang trước mặt và chỉ lấy sức mạnh xô đồng bào, tuyệt đối không được dùng lưỡi lê đâm và cũng không được phép nổ súng. Bộ Tham Mưu chọn 10 người và chỉ 10 người này mới được phép bắn. Đại Úy Lược lưu ý: chỉ được bắn chỉ thiên mà thôi. Khi nào nghe thấy Thiếu Tá báo hiệu lệnh thì mới được nổ.” Ngoài 10 người đã được chỉ định không có một quân nhân nào được phép xử dụng đạn nổ. Bộ Tham Mưu lại chọn 15 quân nhân khác, phân phối cho 15 địa điểm và mỗi quân nhân được phát một trái lựu đạn MK3. Đây là lựu đạn thuộc loại huấn luyện có mục đích làm cho tân binh quen với tiếng nổ. Lựu đạn MK3 cũng dùng khi tấn công địch nhưng MK3 không có tác dụng giết người và nếu đứng gần chỗ nổ sẽ chói tai long óc và có thể bị thương nhẹ.
Đại Úy Phu nhắc lại lệnh của Thiếu Tá Sỹ: “Các anh em xử dụng lựu đạn phải nhớ hai tiêu chuẩn: 1 chỉ ném khi có súng lệnh của Thiếu Tá, 2 chọn nơi nào không có người mới được ném thí dụ như ném vào bãi cỏ, gốc cây”.
Trong khi Bộ Tham Mưu của Tiểu Khu còn đang bàn thảo kế hoạch đối phó thì Đài Phát Thanh bắt đầu lâm nguy trầm trọng. Gạch đá bay vun vút. Trung Tá Thưởng, Giám đốc Nha Công An TNTP gọi điện thoại cho Thiếu Tá Sỹ, giọng bẳn gắt : “Anh còn chần chờ gì nữa… Anh giải tán ngay đi. Tình hình nguy lắm rồi”. Thiếu Tướng Nghiêm từ Đà Nẵng gọi điện thoại hỏi tình hình và ra lệnh cho ông Sỹ: “Việc đã gấp rồi giải tán thì giải tán ngay đi, còn chần chờ gì…”
Ông Ái và mấy sĩ quan tham mưu nhìn nhau, do dự… Ai cũng ngán.
Đợt thứ nhất, ông Sỹ cho xử dụng xe phun nước nhưng vô hiệu. Đồng bào đông quá và nhấp như biển động trong cơn giống tố. Đợt thứ hai, ông Sỹ cho hai tiểu đội Quân Cảnh, một tiểu đội Hiến Binh và khoảng 20 nhân viên Cảnh sát. Nhưng cũng vô hiệu. Đám quần chúng càng ngày càng bị khích động và đang như trong cơn lên đồng.
Ông Quản Đốc Ngô Ganh kêu cứu trong sự tuyệt vọng: Đài mất đến nơi rồi họ giết tôi bây giờ đây nè. Thiếu Tá can thiệp gấp.
Đợt thứ 3: Thiếu Tá Sỹ cho 2 trung đội ra đi tiến theo đội hình ngang cùng với ba xe phóng thanh kêu gọi đồng bào giải tán, gạch đá bay vun vút hàng ngàn tiếng la ó, đả đảo, hoan hô.
Ông Nguyễn Văn Đẳng bắt đầu mất tinh thần. Quần chúng làm dữ quá. Gạch đá ném tới tấp vào cửa Đài Phát Thanh. Ông nói với Thượng Tọa Trí Quang “Thầy dùng micro, Thầy nói dùm như thế này nguy hiểm quá”. Thầy Trí Quang ngần ngại: “Bây giờ tôi phải nói với Phật Tử sao đây?” Đám đông vẫn cuồn cuộn như thủy triều dâng cao. Thầy Trí Quang ra trước cửa Đài, lên tiếng trấn an đám đông, đại cương : “Phật tử cứ bình tĩnh, mọi việc Thầy đang tìm cách giải quyết”… Nhưng lời Thầy Trí Quang cũng vô hiệu.
Đám đông làm dữ quá. Một Nhà Sư trẻ đã nhẩy lên được nóc Đài Phát Thanh và cắm cờ Phật Giáo. Khi thượng Phật kỳ xong đám đông càng thêm phấn khởi hô to vang dội. Từ lúc đó, chung quanh Đài, Phật kỳ bay rợp trong ánh sáng như vùng hào quang đêm hoa đăng. Biển người nhấp nhô chuyển động và bắt đầu như con thuyền trăm lái. Đám đông này sẽ vỡ như ong vỡ tổ. Một số ít nhân viên công lực đành khoanh tay và lúc ấy đám đông đang làm chủ tình hình. Khi đám đông bộc phát trong ngọn lửa của nhiệt tình tôn giáo thì thiết tưởng không có gì chế ngự được. Lúc ấy họ chỉ biết vâng phục một thứ thần quyền qua ngọn cờ tôn giáo.
Quản Đốc Ngô Ganh cũng như Tỉnh Trưởng Nguyễn Văn Đẳng gần như mất hết bình tĩnh. Lúc ấy nhà cầm quyền phải triệu thỉnh Thượng Tọa Trí Quang, Thượng Tọa Trí Quang tuy có kêu gọi Phật tử phải nên bình tĩnh nhưng đám đông mỗi lúc một thêm cuồng nhiệt.
Trung Tá Thưởng tỏ ra vô cùng lo ngại nên một lần nữa điện thoại cho Thiếu Tá Sỹ hối thúc: “Anh còn đợi gì nữa? anh còn chần chờ gì nữa? anh còn chần chở gì nữa mà không bắt đầu đi”. Dù ông Sỹ đã cho hai Tiểu đội Quân Cảnh cùng Hiến Binh và Cảnh Sát đi giải tán nhưng họ khoanh tay không thể làm gì được hơn. Trung Tá Thưởng phải thân hành đến Quân Trấn hối thúc ông Sỹ.
Thiếu Tá Sỹ cho 2 trung đội tiến ra theo đội binh hàng ngang. Kể từ lúc đó, đồng bào Phật tử cũng bắt đầu lo việc bố phòng… Các xe đạp được đưa chắn ngang đường. Thanh niên Phật Tử lẫn lộn bên cạnh các bà các cô và thiếu nhi để tạo thành vòng rào ngăn chặn nhân viên công lực.
Từ trên nóc Đài Phát Thanh một Nhà Sư trẻ cầm chiếc loa kêu gọi Phật Tử hãy tiến lên không sờn lòng trước bạo lực. Nhà sư lại nhấn mạnh là đang có sư đoàn từ Đà Nẵng tiến vào để hỗ trợ cho cuộc đấu tranh vì Đạo Pháp. Nhà sư vừa dứt lời, đám đông bỗng náo nhiệt hẳn lên nhiều tiếng la ó hoan hô vang dậy.
Tại Tiểu khu, Thiếu Tá Đặng Sỹ duyệt xét kế hoạch lần cuối cùng với các sĩ quan như Đại Úy Phu, Đại Úy Lược, Trung Úy Kỳ. Ông Sỹ quyết định dùng xe cơ giới của Bảo An (thứ có 4 bánh xe cao lênh khênh) để mở đường lính tiến theo sau xe. Một sĩ quan cho rằng dùng xe mở đường rất hay, đồng bào thấy xe đạp bị cán sẽ sót cũng do đó sẽ tự động vác xe lên hè phố, như thế binh sĩ mới có thể tiến được, ý kiến quả hiệu nghiệm khi xe của Thiếu Tá Sỹ tiến lên. Theo Trung Sĩ Quang (thuộc tiểu khu Thừa Thiên) thì xe đi với một tốc độ như rùa.
Xe tiến gần đến đâu thì đồng bào đổ xô ra đường vác xe lên hè phố. Ai cũng biết dân miền Trung nghèo khổ, nên chiếc xe đạp luôn là một bảo vật.
Nhờ vậy cuộc tiến quân diễn ra êm thắm. Tuy nhiên theo ông Nguyễn Nghiễm khi đồng bào thấy xe và lính thì không khí tranh đấu bỗng dưng bùng lên cực mạnh. Bao nhiêu con mắt đều đổ dồn về ông Sỹ, phía ông Sỹ có nhiều tiếng chửi thề. Có Phật tử gọi đích danh ông Thiếu Tá Sỹ mà chửi bới. Thế rồi gạch đá guốc vỏ la ve bay như bướm. Theo ông Nguyễn Nghiễm lúc ấy tinh thần đồng bào lên quá cao.
Chính Nguyễn Nghiễm cũng có cảm tưởng như mình như mình đang dự vào cuộc thánh chiến và sẵn sàng xả thân cho đạo pháp. Cho đến lúc ấy chương trình phát thanh vẫn ngưng bặt và chỉ còn tiếng la ó của đám đông. Mô tả đám đông này, ông Nguyễn Nghiễm cho rằng chưa có lễ Phật Đản nào (trước năm 63) lại đông người và phấn khởi như vậy.
Trên xe, Thiếu Tá Sĩ mặc áo giáp cùng với 2 Hạ Sĩ Quan là Trung Sĩ Tư và Quang… Gạch đá ném lên xe nhiều quá nhưng vì có mũ sắt và áo giáp nên không ăn nhằm gì. Ông Sỹ vẫn cho xe tiến từ từ…
Cùng với Trung Úy Kỳ, Chi đội trưởng cơ giới Bảo An. Xe tiến đến đâu thì đồng bào dạt ra hai bên đường, trông cảnh tượng rất ngộ. Dù chạy thì chạy nhưng ai nấy không quên dắt theo xe.
Ông Sỹ được một phen nghe chửi rát tai.
Trong khi đó, ba xe phóng thanh của Ty Thông Tin luôn luôn kêu gọi đồng bào giải tán. Văn Phòng Cố Vấn Chỉ Đạo của ông Cẩn lại có vẻ bình thản vì không ai ngờ thảm họa sẽ xảy ra. Cho đến lúc ấy văn phòng của ông Cẩn không có một liên lạc nào với Trung ương. Từ Thiếu Tướng Nghiêm đến ông Hồ Đắc Khương ông Cẩn và bộ tham mưu ai cũng chỉ lo sợ một điều duy nhất là Đài Phát Thanh bị chiếm và một khi bài thuyết pháp của Thượng Tọa Trí Quang được phát thanh thì coi như một tai họa không nhỏ cho mấy ông lớn vì bài thuyết pháp đó như trên đã viết công kích chánh quyền mạnh quá và tất cả đều sợ trách nhiệm đối với Tổng Thống.
Thực nếu không xử dụng quân đội thì lực lượng an ninh của thành phố Huế không thể nào giữ nổi Đài Phát Thanh. Ai có mặt trong đêm 8-5-63 mới thấy rõ sức mạnh của quần chúng. Sức mạnh đó khi được khơi động bằng lý tưởng tôn giáo và được hướng dẫn bởi một số huyền thoại lãnh tụ thì đó là sức mạnh của giông bão.
TIẾNG NỔ RUNG CHUYỂN CẢ NƯỚC
Chiếc xe cơ giới của Thiếu Tá Sỹ tiến đến gần Đài Phát Thanh khoảng 50 thước. Bỗng có một tiếng nổ kinh hồn và tiếp theo một tiếng nổ khác. Lúc ấy là 10g30.
Xe của ông Sỹ quay khựng lại, một Hạ Sĩ Quan la lớn: “nổ! Thiếu Tá coi chừng Việt Cộng” Thiếu Tá Ông Sỹ rút Colt 12 cầm tay, nói qua máy “nghe đây , nghe lịnh đại bàng đây”
Theo sự mô tả của một số sĩ quan có mặt ở gần Đài lúc đó thì tiếng nổ làm rung chuyển tất cả, thứ ánh sáng từ phía nổ phát ra giống như một tia sét và trong đời binh nghiệp của họ thảy đều chưa nghe thấy một tiếng nổ nào lạ tai như vậy.
Sau tiếng nổ, ông Nguyễn Nghiễm cho biết cảnh tượng trở nên vô cùng hỗn loạn trong sự kinh hoàng. Đồng bào xô đẩy nhau tìm đường thoát thân. Bao nhiêu tiếng khóc kêu la. Các đường chung quanh Đài Phát Thanh vốn nhỏ hẹp lại càng thêm tắc nghẽn. Đồng bào bỏ cả xe, guốc dép và tìm cách thoát thân. Trẻ con đằn bà khóc như di. Ông Nguyễn Nghiễm đứng cách chỗ nổ 50, 60 thước, cảm tưởng của ông lúc ấy giống như người bị mất trí người thì ngất ngư, hai con mắt hoa lên, tay chân luống cuống không biết chạy đi đâu.
Sau hai tiếng nổ đầu, khoảng 4, 5 phút sau ông Nguyễn Nghiễm nghe thấy ba, bốn tiếng súng lục từ phía xe của Thiếu Tá Sỹ và tiếng la lối của mấy quân nhân trên xe. Ông Nguyễn Nghiễm thấy tức nơi ngực ông chạy khỏi đài một quãng khá xa mới dừng lại. Anh Nguyễn Hữu Cang chạy thoát qua cầu Tràng Tiền. Khi tiếng nổ xảy ra, Nguyễn Hữu Cang ở ngay gần Đài. Tiếng nổ lớn quá làm anh xây xẩm và lảo đảo. Một mảng thịt người văng tung vào mặt Nguyễn Hữu Cang cho đến nay Nguyễn Hữu Cang vẫn không thể xóa nhòa được cái cảnh tượng bị thương hôm ấy.
Trong khi đồng bào xô đẩy nhau chạy thoát thân, đồng bào luôn luôn được nghe tiếng người ta hô hoán: “Chạy lẹ đi, nó bắn chết hết bây giờ” hoặc những tiếng la lối như “Bà con chạy lối ni… đồng bào đừng về lối nớ… Đặng Sỹ nó đang cho xe cán đồng bào ở đằng nớ…”
Đám đông quần chúng đã hỗn loạn lại càng thêm hỗn loạn.
Về phía Thiếu Tá Sỹ, khi nghe hai tiếng nổ, ông hét lên qua máy nói: “Việt Cộng phá đài, nghe tôi. Nghe tôi đại bàng đây Việt Cộng phá đài”.
Lệnh trên được truyền ra thế là 10 tay súng được chỉ định từ trước đều dơ cao nòng súng lên không trung và nhả đạn. Họ chỉ được phép bắn chỉ thiên mà thôi. Đồng thời lúc đó, các quân nhân xử dụng lựu đạn MK3 cũng đồng loạt cho nổ qua 15 địa điểm khác nhau. Có anh ném MK.3 xuống phía bờ sông, có anh ném trong sân trường Văn Khoa, có anh ném ngay gần phía Câu Lạc Bộ thể thao.
Quân đội bắt đầu chuyển dịch và bắt tay vào hành động. Xe của Thiếu Tá Sỹ đứng trước đài. Chao ơi cảnh tượng thê lương chưa từng thấy! Không một xác chết nào được toàn thây. Có nạn nhân đầu bị thổi bay cách Đài cả chục thước, cẳng giò cũng bay đi đâu mất tiêu, ruột gan phèo phổi bay lên cả cành cây, tung tóe khắp nơi, tất cả cửa kính của đài bị bay đi hết. Cảnh tượng ấy theo những người chứng kiến, có thể nói không bút nào tả hết được sự thê lương. Tiếng nổ đó không do mảnh (écletements) mà chỉ do hơi (soufflement). Sức hơi ép ước khoảng tương đương với 5 kilo thuốc nổ TNT. Nạn nhân chết không do mảnh mà do hơi ép. Sức hơi ép ấy là cho nạn nhân tan xác. Trung sĩ Tư tiến đến cách đài 30 thước bỗng dừng khựng lại hô thất thanh: “Bớ đầu người ta đây nè” Một chiếc đầu nạn nhân ở ngay dưới chân ông ta. Theo ông Tư chiếc đầu người đó không còn là đầu người nữa. Ông chỉ thấy hàm răng dính vào một mảng thịt.
Một loạt liên thanh nổ lên trời. Thiếu Tá Sỹ colt 12 cầm trên tay, mặt thất sắc nói không ra lời ông cố ra lệnh cho thuộc viên. “Coi chừng, nó có thể tấn công Đài bây giờ”. Sau đó… ông Sỹ vào thẳng bên trong Đài. Vừa trông thấy Thượng Tọa Trí Quang ông Sỹ đã mất bình tĩnh nói lớn: “Làm sao thế này. Sao có người chết như thế này” Những người có mặt trong Đài lúc đó đều tỏ ra lo sợ và mất hết tinh thần. Ông Đẳng mặt tái xanh ngơ ngác. Tai họa xảy ra bất ngờ quả không một ai tưởng tượng nổi. Thượng Tọa Trí Quang cũng vậy thảy đều không giữ được sự bình tĩnh, Thượng Tọa Trí Quang chắp tay vào nhau như nguyện cầu nói trong cơn lo âu: “Tôi không ngờ lại xảy ra như thế này”. Thiếu Tá Sỹ bảo Thượng Tọa Trí Quang: “Thầy phải chịu hết trách nhiệm về những hậu quả đã xảy ra như thế này”. Ông Sỹ lại dằn giọng nhắc: “Tại sao lại xảy ra như thế này?” Trung Tá Thưởng Giám Đốc Nha Công An Tư Pháp như không nén được cơn tức giận. Ông lừ mắt nhìn mọi người rồi nói với Thượng Tọa Trí Quang: “Ông phải chịu hết trách nhiệm” – Ông Thưởng lại nói bâng quơ – “Ai gây ra thì phải chịu hết trách nhiệm” – Lúc ấy, Thượng Tọa Thiện Minh đứng bên Thượng Tọa Trí Quang với một thái độ khá ôn tồn và khiêm tốn nói với Thiếu Tá Sỹ cũng như Trung Tá Thưởng “Chuyện xảy ra như thế này, thì không biết nói sao. Tôi xin chịu hết trách nhiệm”.
Lúc bấy giờ chung quanh Đài không còn một ai ngoài quân đội và nhân viên công lực. Đồng bào đã chạy dạt sang bên kia cầu và đang tụ tập ở phía chợ Đông Ba khoảng 5, 7 trăm người. Những nạn nhân bị thương được di tản gấp đến nhà thương Huế. Nạn nhân bị tử thương ngay lúc đầu không còn cách nào để nhận ra, có bao nhiêu người nam hay nữ, già hay trẻ, vì như trên đã viết, nạn nhân chết không tòa thây da thịt bay tứ tung.
Lúc ấy một viên chức Mỹ tìm cách đến đây để lo chụp hình quay phim nhưng bị nhân viên công lực đuổi khỏi. Vợ chồng Bác Sĩ Wuff người Đức thuộc Đại Học Y Khoa Huế tìm cách vào trong Đài xin để săn sóc nạn nhân nhưng bị từ chối. Chính Bác Sĩ Wuff này nhanh tay chụp được mấy tấm hình, một vài chiếc xe cơ giới của Bảo An lúc ấy đang đậu ngay trước đài (nội sáng 9-5 tấm hình này được gởi về Saigon và mấy ngày sau xuất hiện trên báo chí Tây Đức, Pháp, Mỹ. Một chi tiết cần lưu ý năm 1965, ba Bác Sĩ Đức của Đai Học Y Khoa Huế trong đó có BS Wuff chụp hình và ráp nối hình đêm 8-5-63 đều bị an ninh của Sư Đoàn I dưới thời Tướng Nguyễn Chánh Thi làm Tư Lệnh, trong một cuộc hành quân tại khu Nam Đồng Khánh khám phá được tài liệu mật cho biết rằng 3 ba BS người Đức trên đây đều là người Đông Đức vượt qua Tây Đức và là những điệp viên Cộng Sản thuộc loại quốc tế. Nhưng lại có giả thuyết cho rằng họ thuộc loại gián điệp đôi)
Khoảng 11 giờ đêm đồng bào Phật tử lại nhốn nháo người thì lo các Thầy bị bắt, người thì xốn xang không biết nạn nhân có phải vợ con mình không. Đồng bào tìm cách vượt qua cầu Tràng Tiền tiến sang Đài Phát Thanh. Cầu Tràng Tiền lúc đó ngổn ngang không biết bao nhiêu là guốc dép. Không khí bỗng dưng lại sôi nổi. Một Phật Tử từ phía Đài sang bên Đông Ba kêu gọi đồng bào phải có thái độ ngay vì các Thầy đã bị bắt hết rồi và xe tăng cán người ta chết nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Thế là trong cơn hăng say, một số đồng bào lại kéo nhau qua Đài.
Ông Nguyễn Văn Đẳng lo âu lắm, bảo với Thiếu Tá Sỹ “Sự việc đã xảy ra như vậy rồi, Thiếu Tá cứ an tâm, tôi sẽ trình với Tổng Thống về vụ này” Đám đông tiến đến phía Đài bắt đầu sôi động, nhiều tiếng la ó. Thiếu Tá Sỹ thấy vậy chạy vào mời Thượng Tọa Trí Quang ra coi và nói: “Thầy nhìn kìa, bây giờ mà còn làm tới nữa. Thầy bảo họ về ngay đi, đừng làm cái trò đó nữa” . Thượng Tọa Trí Quang vui vẻ nhận lời và nói với các Phật tử: “Các con cứ về đi. Các Thầy không có sao cả” Đám đông nghe theo lời tự động kéo về nhưng trong lòng rất giao động, bất mãn và ai cũng nóng muốn tìm hiểu xem đã có bao nhiêu nạn nhân bị gục ngã
AI LÀ THỦ PHẠM
Giới chức chính quyền Thừa Thiên bắt đầu lo sợ không biết giải quyết như thế nào và thượng cấp sẽ tỏ thái độ ra sao. Hầu hết đều yên trí rằng đây là một “coup montée” do Cộng Sản chủ động. Việc cấp thời lúc ấy là cho di tản các nạn nhân bị thương vào bệnh viện
Mặt khác nhân viên hữu trách cho người đi lượm từng mảnh thịt, từng khúc xương từng bàn chân của nạn nhân bị tử nạn. Theo Đại Úy Minh trong số nạn nhân này, có một thiếu nữ đã chịu phép rửa tội theo đạo Thiên Chúa. Suốt đêm 8 nhân chứng Nguyễn Hữu Cang cũng như ông Nguyễn Nghiễm và nhiều cán bộ Phật Tử đã gần như thức trắng đêm vừa hoang mang vừa lo âu vừa căm tức chánh quyền vì họ cho rằng chánh quyền đã gây ra vụ nổ đó. Lại có nguồn tin loan truyền trong giới Phật Tử là Thiếu Tá Sỹ đã cho “đằn” Phật Tử và ném lựu đạn vào Phật Tử.
Trong khi đó tại Bộ Tham Mưu Tiểu Khu từ Thiếu Tá Sỹ đến Đại Úy Phu, Đại Úy Lược không dấu nổi lo âu. Người trong cuộc cũng không hiểu đầu đuôi ra thế nào. Hai tiếng nổ từ đâu? Do ai? Cảm tưởng đầu tiên của họ là bàng hoàng. Tiếng nổ lạ tai quá cũng không giống plastic, lựu đạn lại càng vô lý. Nhưng không ai có thể suy đoán ra được. Người nghe tiếng nổ đầu tiên là ông Sỹ cũng như một số sĩ quan và binh sĩ trên cùng chiếc xe cũng như đi sau xe. Họ đều bị chói tai và áp lực của tiếng nổ làm cho họ không còn phản ứng, đầu và ngực như bị một vật gì rất nặng đập ngang.
Có điều lạ là sáng hôm sau mấy ông BS Wuff đã có một số hình ảnh về vụ nổ trong đó có tấm hình xe cơ giới đang “đằn” qua đồng bào Phật Tử. Một số hình này BS Wuff trao cho BS Lê Khắc Quyến. Ngày 9, ông Quyến cấp tốc về Saigon.
Ai gây ra tiếng nổ? Trong phiên tòa xử Thiếu Tá Đặng Sỹ, các chuyên viên quân cụ có dịp phân tích các loại chất nổ như M26, MK3… Giả thuyết M26 đã bị loại – giả thuyết MK3 mặc dầu tòa đặc biệt lưu ý, nhưng cuối cùng cũng bị loại. Như trên đã viết MK có thể làm cho chết người được vì áp lực của hơi nổ (soufflement) nhưng tác dụng không thể nào đạt tới con số thương vong cao như vậy nhất là trong một khoảng trống. Mà nơi phát ra tiếng nổ thì nền xi măng lại chỉ mõm xuống không sâu bao nhiêu.
THỦ PHẠM MANG TÊN SCOTT
Mãi sau này, năm 1966 trong cuộc hành quân ở Nam Đồng, Đại Út Scott (Cố Vấn của Tiểu Đoàn 1/3 SĐIBB từ năm 1965) mới cho biết về một sự thật.
Dạo ấy năm 1965, miền Trung đang bắt đầu sôi động và ngút ngàn trong ngọn lửa Phật Giáo đấu tranh. Trong một buổi mạn đàm Đại Úy Bửu nói chuyện trăng gió mây nước với Đại Úy Scott rồi hai người “bắt” qua chuyện Phật giáo tranh đấu. Đại Úy Scott nói đại cương:
– Phật giáo miền Trung sẽ không thành công trong vụ này.
Ông Bửu hỏi: “Tại sao không thể thành công?”
Đại Úy Scott đáp: “Phật Giáo không tạo được những yếu tố để thành công như năm 1963”.
Đại Úy Bửu hỏi: “Đại Úy muốn nói yếu tố nào?”
Đại Úy Scott nói: “Những yếu tố không phải do Phật giáo tạo được”.
Đại Úy Bửu: “Đại Úy muốn nói đến tiền bạc hay khí giới tinh thần.”
Đại Úy Scott đáp: “Khí giới tinh thần thì Phật giáo có đấy chứ nhưng không dễ gì thành công vì không được đồng minh ủng hộ”. Ông nói tiếp: “Hoa Kỳ đã giúp cho Phật giáo nhiều yếu tố để thành công trong vụ 1963”
Đại Úy Bửu nói: “Bây giờ Hoa Kỳ sẽ không còn giúp đỡ Phật giáo nữa”
Đại Úy Scott: “Bây giờ thì tôi không biết nhưng vụ 1963 thì tôi biết rõ”.
Đại Úy Bửu lấy làm ngạc nhiên tại sao một Đại Úy như Scott lại có thể am tường nội tình PGVN như vậy. Đương sự hỏi tiếp: “Năm 1963 Đại Úy ở đâu?” Scott không đáp thẳng vào câu hỏi và tựa hồ trong lòng ông còn ẩn dấu bao nhiêu điều bí mật. Sau đó Scott tâm sự: “Tôi hiểu rõ Phật giáo ở đây, có thể còn hơn cả các anh. Tháng 5-63 tôi ở Đà Nẵng. Tôi trở ra Huế một ngày trước khi xảy ra vụ nổ tại Đài Phát Thanh Huế”
Đại Úy Bửu hỏi ngay: “Theo Đại Úy có phải Việt Cộng gây ra vụ nổ đó không?”
Scott đáp: “Chỉ có người nào ngây thơ mới tin như vậy”.
Đương sự hỏi luôn: “Như vậy thì Thiếu Tá Đặng Sỹ, Phó Nội An cho nổ?”
Scott đáp: “Làm gì có chuyện đó, tội nghiệp cho ông ta. Bây giờ ông ấy đang bị tù phải không?”
Đại Úy Bửu: “Hiện Thiếu Tá Sỹ đang bị cầm tù. Ông ấy bị kết tội đã đàn áp Phật giáo và làm chết 8 Phật tử tại Đài Phát Thanh”.
Lời Scott: “Không ai nói thẳng sự thật để bênh vực ông ấy?”
Đại Úy Bửu hỏi: “Vậy anh có tin là Thiếu Tá Sỹ thủ phạm vụ nổ tại Đài Phát Thanh Huế không?”
Đại Úy Scott nói: “Thiếu Tá Sỹ cũng chỉ là một nạn nhân”.
Hỏi: “Theo Đại Úy ai là thủ phạm trong vụ này?”
Đại Úy Scott lắc đầu nói, chuyện còn dài lắm. Tôi sẽ kể cho anh nghe,
Trả lời tiếng nổ thuộc về loại nào. Đại Úy Scott nói: “Tại sao người ta lại tin đó là tiếng nổ của Plastic Việt Cộng và lựu đạn của chính quyền Việt Nam?”
“CÚ SCOTT”
Đại Úy Bửu – chính là em họ bên vợ của Thiếu Tá Sỹ – ông cố bám sát Scott và tìm lời dọ hỏi xem đầu giây mối nhợ như thế nào. Lúc đầu Scott thố lộ rằng chính người bạn của ông một nhân viên CIA đã làm vụ đó. Scott mô tả chất nổ đó là một chất đặc biệt của trung ương tình báo Mỹ. Thể tích của nó không lớn hơn bao quẹt và có riêng bộ phận để điều khiển. Bộ phận này sẽ “canh giờ” chừng nào nổ.
Ít lâu nay, do nhiệt tâm tìm hiểu của Bửu, Đại Úy Scott đã phanh phui tất cả sự thật, ông ta có lẽ vì “lương tâm” xúc động cho nên tâm sự rằng chính mình đặt thứ khí giới đặc biệt đó tại Đài Phát Thanh.
Trở lại đêm 8-5 tại Đài Phát Thanh Huế: Những nhân chứng có mặt tại đài đều xác nhận sự tàn phá của chất nổ thật kỳ lạ và ghê tởm. Thượng Tọa Trí Quang cũng như Thiện Minh không dấu được sự lo âu và mất bình tĩnh.
Khi nghe tiếng nổ đầu tiên linh tính cho biết là đã có sự chẳng lành. Đại Úy Minh, Chánh văn phòng của ông Ngô Đình Cẩn vội vã lấy xe cùng mấy người khác chạy ra Đài. Theo Đại Úy Minh, cảnh tượng trước mắt ông thật thê lương ông không thể dấu được xúc động. Mọi người lúc ấy (về phía chính quyền) thì đều cho rằng Cộng Sản đã làm việc này gây xúc động. Phật Giáo thì cả quyết là chính quyền.
Khoảng 1 giờ đêm mọi người kéo nhau về nhà ông Cẩn trong đó có ông Nguyễn Văn Đẳng, Trung Tá Thưởng, Hoàng Trọng Bá, Hồ Đắc Trọng. Giờ ấy, ông Cẩn đã lên giường nằm ngủ nhưng Đại Úy Minh vẫn vào phòng đánh thức ông Cẩn dậy. Cảm giác đầu tiên của ông Cẩn là mất bình tĩnh. Sự việc xảy ra thực không ai ngờ nổi.
Scott hay ai cũng chỉ là một thứ thừa hành. Ai ra chỉ thị? Hoa Thịnh Đốn hay Tòa Đại Sứ hay ông Trùm CIA? Hay Đại Tướng Richardson? Dưới thời TT Kennedy, tổ chức Việt Nam Task Force được coi như môt thẩm quyền mạnh nhất trước các quyết định về Việt Nam do Hilsman cầm đầu. Ngay từ năm 62 Hilsman đã chủ trương phải lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm và người Mỹ phải có thái độ tích cực hơn đối với các vấn đề Việt Nam có nghĩa là Mỹ phải trực tiếp can dự vào cuộc chiến. Mỹ phải nắm quyền chủ động tại chiến trường Việt Nam. Hilsman không phải là nhân viên tình báo chuyên nghiệp nhưng trong quá khứ ông là một cộng tác viên đắc lực của CIA.
Hilsman thuộc phái trẻ và khuynh hướng tự do (ông đã công khai chống đối Đại Sứ Nolting và chịu chi phối bởi một số ký giả Mỹ cho rằng Đại Sứ Nolting quá nhu nhược đối với chính quyền Ngô Đình Diệm và cùng lên án Nolting đã bị chính quyền Ngô Đình Diệm mua chuộc). Đã từ lâu phe Hilsman chủ trương thay thế Đại Sứ Nolting. Ông Nolting lại là một nhà ngoại giao thuần túy. Ngôn ngữ, cử chỉ của ông có vẻ Tây hơn là Mỹ. Ông bị ảnh hưởng văn hóa Pháp khá sâu xa. Sự thật là lập trường của Đại Sứ Nolting là ủng hộ chính quyền Ngô Đình Diệm và ông được coi là người Mỹ mềm dẻo nhất tại Việt Nam.
Năm 1963, phòng Trung Ương Tình Báo tại tòa Đại Sứ Mỹ có vào khoảng 50 nhân viên (sau năm 63 và cho đến nay, con số này đông vô kể) Đại Tá Richardson là ông trùm CIA tại Việt Nam, lúc đó dưới quyền là ông Smith. Nhưng Richardson lại tỏ ra đồng một lập trường với Nolting. Sau này ông Nhu tố cáo Richardson âm mưu đảo chánh, ông Nhu đã tố sai tuy vậy Richardson bị cấp tốc thay thế. Ông Nhu mất một CIA ủng hộ. Đó cũng là một sự tính toán lầm của ông Nhu.
Nếu nói rằng CIA tại Tòa Đai Sứ Mỹ chủ động vụ nổ tại Đài Phát Thanh thì không đúng. Nhưng CIA không phải chỉ ở Tòa Đại Sứ Mỹ và họ có những đường giây (réseaux) hoạt động biệt lập với phòng CIA của Đại Tá Richardson và chỉ trực tiếp với Hoa Thịnh Đốn. Do đó, “cú Scott” tại Đài Phát Thanh Huế cũng chỉ là một cú “chơi lẻ” (coup isolé).
Ngay từ những năm 61, 62 nhân viên Trung ương Tình Báo Mỹ đã gài người trong nhiều cơ quan như USAID kể cả những tổ chức văn hóa giáo dục.
Nhờ vậy CIA đã thừa khả năng nhân sự để chơi những “cú lẻ” tương tự như trên.
Người ta tự hỏi rằng, hà tất gì CIA phải ra tay nhập cuộc như vậy qua vụ nổ Scott tại Đài Phát Thanh Huế? Câu chuyện thật dài dòng phức tạp và khó có thể giải thích cho một vấn nạn trên đây nếu không căn cứ theo những diễn biến trong cuộc bang giao Việt Mỹ 1964 cùng những toan tính của Mỹ trong chiến lược của họ tại Việt Nam. Giới chức Mỹ nhất là phía CIA đã thuộc nằm lòng phương thức này: “Những lãnh tụ Á Đông phải dùng bạo lực mới có thể đánh đổ họ xuống được”. Một phương thuật xử dụng bạo lực của CIA không kém tinh xảo so với phương thức của Cộng Sản.
Nhưng lúc ấy không ai ngờ CIA nhúng tay “tinh vi” như vậy và người ta nhất định cho rằng Cộng Sản làm vụ này.
Riêng ông Cẩn trước cái họa như vậy và khi nghe tường trình nội vụ rồi im lặng triền miên như đành bất lực không biết phải giải quyết như thế nào. Theo Đại Úy Minh đã có ba ý kiến được nêu lên như sau.
1- Đã xảy ra như vậy thì làm tới luôn. Sáng ngày 9, ban hành lệnh giới nghiêm tại thành phố Huế. Đồng thời cô lập giữa chùa Từ Đàm với các cán bộ Phật Tử. Trong khi đó sẽ có cơ quan an ninh sẽ truy lùng những thành phần Việt Cộng khả nghi từ bấy lâu nay.
2- Nếu không giải quyết theo cách một thì cấp tốc phải tìm tới gia đình các nạn nhân để điều đình thu xếp ốn thỏa và bồi thường xứng đáng.
3- Cách hai không đồng ý thì phải thương thuyết với mấy Thầy ở chùa Từ Đàm và nhờ các Thầy xoa dịu đồng bào Phật Tử và đồng thời sẽ bồi thường nạn nhân một cách đầy đủ
Cả ba phương thức giải quyết đưa ra ông Cẩn không tỏ một thái độ nào rõ rệt. Ông Cẩn ra lệnh cho Tòa Đại Biểu đánh điện cấp tốc về Sài Gòn để xin quyết định. Một việc sôi bỏng như vậy nhưng mãi hai ngày hôm sau Saigon mới phái ông Bùi Văn Lương, Bộ Trưởng Nội Vụ ra Huế tìm cách giải quyết tại chỗ.
Trong số những phương thức được đưa ra để giải quyết có một phương thức khá nguy hiểm. Hoàng Trọng Bá cho rằng, ngoài việc giới nghiêm toàn thể vào ngày 9-5 (al) chính quyền phải cho mời ngay Thượng Tọa Trí Quang và Thiện Minh vì ai cũng biết hai vị này là nòng cốt của Giáo hội Phật Giáo miền Trung. Ý kiến như thế này:
“Ông Cố Vấn (tức ông Cẩn) sẵn “hồ sơ tối mật” của hai ông Thầy (ông Cẩn có thể dùng những hồ sơ đó như một điều kiện giao tế) và cho rằng khi đã nắm được những “a tu” của mấy vị tất sẽ dễ dàng khu xử và những cái gọi “bí ẩn” trong đời sống cá nhân cùng những hoạt động từ năm 1945-1955, ý kiến trên căn cứ đó xin với ông Cẩn cho an ninh “mời” ngay hai Thầy lại sẽ đưa ra điều kiện để dọa: Hồ sơ hai Thầy như thế, như thế, hoạt động quá khứ như vậy… như vậy. Do đó, một là mấy Thầy bỏ qua nội vụ và để chính quyền lo việc bồi thường. Hai là nếu không chính quyền sẽ bắt giữ rồi công khai hóa “hồ sơ tối mật” đã nắm giữ từ dạo năm 56 trong khi đó chánh quyền sẽ dùng phương pháp phóng tài hóa thu nhân tâm bồi thường nạn nhân xoa dịu Phật tử, mua chược các Thầy khác”.
Ý kiến trên tuy có vẻ bá đạo nhưng Hoàng Trọng Bá tin chắc chắn có hiệu nghiệm. Cuối cùng không được chấp nhận.
Sáng 9-5 Đại Úy Minh túc trực tại Văn Phòng Chỉ Đạo từ sớm. Ông Cẩn chỉ thị tìm mọi cách giải quyết sao cho êm đẹp.
Về phía Phật Giáo tại chùa Từ Đàm thì ngay đêm 8, sau vụ nổ, nhiều Thượng Tọa cũng giao động không biết sự thể xảy ra như thế nào. Hầu hết đều ngán thứ “uy quyền” trong tay ông Cẩn (trên thực tế uy quyền ấy đã suy giảm từ năm 1961) cho nên không một Thượng Tọa Đại Đức nào đã bình tĩnh để trù tính kế hoạch cho ngày hôm sau ngoại trừ một hai Thầy đã có mưu riêng.
Mấy Thượng Tọa lại lo sợ chính quyền sẽ áp dụng biện pháp mạnh. Và có thể làm tan rã hàng ngũ mà đã dầy công xây đắp từ chục năm qua. Riêng Nguyễn Nghiễm trong thâm tâm nghĩ rằng, sẽ có sự bắt bớ vào sáng mai và ông đã trù tính trốn nếu sự thể không êm. Nhưng lại có một khuynh hướng tích cực khác cho rằng, phải lợi dụng ngay biến cố này để làm lớn chuyện. Đây là cơ hội ngàn năm một thủa. Đứng đầu khuynh hướng này là Thượng Tọa Thiện Minh.
Theo Nguyễn Nghiễm, Thượng Tọa Trí Quang tuy là người lên tiếng và phát động đầu tiên (qua bài thuyết pháp) nhưng từ ngày 7 đến ngày 9 vai trò của Thượng Tọa Thiện Minh mới là quan hệ và chủ động. Vì Thượng Tọa này có lập trường dứt khoát cho rằng phải lợi dụng ngay biến cố đẫm máu kể trên để hướng đồng bào Phật Tử về một đối tượng sống chết cho Đạo Pháp. Việc đầu tiên, nếu như ngày 9 êm xuôi thì phải đứng lên. Thơi cơ đã đến.
Sáng 9-5, chính quyền lo sợ bên chùa Từ Đàm sẽ làm tới, nên ông Cẩn muốn dùng “tấm tình cố tri” với mấy Thầy để giải quyết. Song nội bộ Từ Đàm tuy đoàn kết nhưng ý kiến rất phân tán, do dự và không ai ngờ phía ông Cẩn lại mềm dẻo như vậy.
Trụ cột là ông Cẩn và chính quyền địa phương chỉ chờ đợi sự giải quyết từ phía ông Cẩn thì ông Cẩn lại không có một quyết định nào. Mọi sự đều nhờ Trung Ương. Suốt buổi sáng ngày 9, ông Cẩn rất bận rộn nào là tiếp Thượng Tọa Trí Quang nào là tiếp các giới chức liên hệ. Ông Cẩn vẫn không tìm ra được một phương thức nào thu xếp ổn thỏa. Một cách đơn giản nhất, ông Cẩn chỉ dùng tiền mua chuộc những người liên hệ và mặt khác cho người tiếp xúc riêng với các gia đình nạn nhân để giàn xếp.
Về phía chùa Từ Đàm, chỉ cần một buổi sáng “tiếp xúc và hòa hoãn” đã trắc nghiệm được phản ứng của chính quyền và thấy rằng, chính quyền không dám làm tới, do đó cần phải bắt tay hành động. Việc đầu tiên là yêu cầu chính quyền phải trả các nạn nhân về chùa Từ Đàm để nhà chùa lo phần ma chay chôn cất.
Lời yêu cầu này không được thỏa mãn vì phía ông Cẩn đã lượng tính được hậu quả và biết thế nào cũng có biến chuyển rất nguy hiểm nếu phía Từ Đàm tổ chức chôn cất nạn nhân.
Trong khi Huế còn đang dằng co dàn xếp thì tại Saigon vẫn có vẻ yên tĩnh lắng đọng. Tại Dinh Gia Long, khi nhận được tin về vụ nổ tại Đài Phát Thanh Huế, TT Diệm vẫn cứ yên trí rằng Cộng Sản len lỏi vào sách động và gây tiếng vang để qui tội cho chính quyền đàn áp Phật Giáo.
Ngày 9 và 10, ông Tổng Thống vô cùng đăm chiêu, Nguồn tin và báo cáo ngoại quốc – nhất là Mỹ, Pháp đều không đồng nhất. Tổng Thống Diệm vẫn đinh ninh câu chuyện sẽ giải quyết êm đẹp, không có gì đáng quan trọng gọi là đại sự. Phía Phật giáo tại Sài Gòn cũng chưa có một phản ứng nào khác hơn là xôn xao bàn tán và cũng mới chỉ biết biến cố qua báo chí dư luận và nhất là bản tin của đài VOA, BBC.
Tòa Đại Sứ Mỹ qua ngày 9, 10 vẫn giữ thái độ yên lặng dè dặt. Ngay trong hành lãnh đạo Phật giáo tại Huế cũng như Saigon không có ai ngờ rằng biến cố có thể lan rộng và trở thành cơn giông tố. Nếu như chính quyền Trung Ương lúc đó có một quyết định dứt khoát để giải quyết cấp thời thì vụ Phật Giáo cũng không nổ to và có thể thu xếp ngay từ buổi đầu.
Trước một biến cố như vậy, không thể giải quyết bằng đường lối hành chánh, luật pháp và công quyền mà phải giải quyết bằng đường lối chính trị với tính cách uyển chuyển, thích nghi và thông suốt của nó. Đằng này, TT Diệm lại chờ đợi giới chức Thừa Thiên báo cáo sau đó mới gửi ông Bộ Trưởng Nội Vụ ra điều tra tại chỗ.
Biến cố tại Đài Phát Thanh Huế sẽ không thể bùng nổ to nếu không có sự lợi dụng những mâu thuẫn giữa ông Ngô Đình Cẩn và Đức Cha Ngô Đình Thục và nhất là nếu không có sự đổ dầu vào lửa của Tòa Lãnh Sự tại Huế. Một vài Thượng Tọa thuộc phe “tích cực dấn thân” như Thượng Tọa Trí Quang, đôn hậu có tình quen biết với ông Cẩn nên cứ làm tới trước hết không phải để “chơi” ông Cẩn mà có ý biểu dương lực lượng cho Đức Cha Thục coi. Sau khi trắc nghiệm thấy có thể làm tới được thì làm tới luôn. Lúc đầu, ông Cẩn lại chủ quan tin rằng:
Các Thầy chùa Từ Đàm nể ông và vì tình riêng ông sẽ không làm mạnh cho nên lập trường của ông Cẩn lúc đầu hết sức dè dặt và tìm mọi cách thương nghị. Đêm 9, ông Cẩn tâm sự với mấy nhân vật cận thân như Đại Úy Minh, Hoàng Trọng Bá, Hồ Đắc Trọng đại cương như sau: “Dù là Cộng Sản nó gây ra như vậy thì mình cũng phải có trách nhiệm. Sáng nay Thầy Trí Quang gặp tui tuy Thầy ấy có buồn phiền nhưng sau nói riết, Thầy ấy cũng vui vẻ nhận lời thu xếp ” Thực tế thì sáng 9-5, khi gặp ông Cẩn, Thầy Trí Quang cũng không có gì tỏ ra là quá “găng”. Thượng tọa Thiện Minh lại quá “thâm trầm” nên không ai rõ Thầy Minh muốn gì sẽ làm gì nhưng Thượng Tọa Trí Quang có sự nóng tính và qua sự nóng tính đó nhiều lần biểu lộ sự bất mãn về Đức Cha Ngô Đình Thục cùng sự hiện diện “quyền uy” của Đức Cha tại Huế, điều mà chính ông Ngô Đình Cẩn cũng tỏ ra khó chịu và bất mãn. Bài thuyết pháp của Thượng Tọa Trí Quang sáng 8-5 có ý nhắm vào Đức Cha Thục hơn là chính quyền Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Cẩn.
Có nhẽ vì thế ông Ngô Đình Cẩn tỏ vẻ thờ ơ không lấy làm khó chịu về bài thuyết pháp của Thượng Tọa Trí Quang và có nhẽ cũng tin rằng, mình vẫn nắm được mấy ông Thầy nên ông Cẩn đã từ chối ngay đề nghị của Hoàng Trọng Bá yêu cầu tung ra trước công luận một vài tài liệu “tổ chức” nọ. Tuy nhiên dù có tung tài liệu đó ra và tài liệu đó đúng 10/10 đi chăng nữa thì quần chúng đang hăng say cũng sẽ không tin tưởng gì vào tài liệu đó cuối cùng sẽ mang tiếng là dùng sức mạnh của nhà nước để chụp mũ.
Trong khung cảnh và thực tại của Huế lúc ấy chính quyền Thừa Thiên chỉ cần khôn khéo đôi chút thì đã dễ dàng xoa dịu được phản ứng nhất thời của Phật tử. Nhưng từ Tỉnh Trưởng đến Đại Biểu Chánh Phủ đã quá non nớt về chính trị và chỉ là cấp thừa hành về hành chánh nên đành khoanh tay trong khi đó phản ứng của quần chúng không được xoa dịu và càng ngày càng bị kích động do những nguồn dư luận “giật gân”.
Ngày 10-5 ông Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ được phái ra Huế điều tra tại chỗ. Theo thông lệ và “truyền thống” của những nhà hành chánh xứ ta thì công việc điều tra đều tựa trên giấy tờ và nghe các cấp bộ hành chánh điều trần. Do đó, ông Bùi Văn Lương vẫn lạc quan vì tình hình tại Huế không có gì trầm trọng, dân tình như thường. Ông Lương tiếp xúc qua các giới liên hệ như ông Nguyễn Văn Đẳng ông Hồ Đắc Khương, Thiếu Tá Sĩ, Trung Tá Thưởng, chính quyền vẫn giữ nguyên luận cứ là Cộng Sản đã gây ra thảm cảnh này. Buổi trưa ngày 10 tháng 5, trên đường từ Tòa Đại Biểu qua Dinh ông Ngô Đình Cẩn, ông Bộ Trưởng Bùi Văn Lương gặp đoàn biểu tình khoảng vài trăm thanh thiếu niên, hàng ngũ lộn xộn. Đại Úy Minh trình bày cho ông Bùi Văn Lương về “nội dung” thành phần đoàn biểu tình đó còn quá thưa thớt và hỗn tạp. Nhưng nếu chỉ ở xa, chỉ nghe hai chữ biểu tình mà lại do Phật giáo đồ chủ trương thì cuộc biểu tình đó trở nên sôi nổi trong trí tưởng tượng của riêng mỗi người. Riêng cuộc biểu tình ngày 5-10 giới an ninh báo cáo có ông Phó Lãnh Sự Mỹ đi theo sau “quan sát”. Tất nhiên là ông đi trên vỉa hè. Sự hiện diện của ông Phó Lãnh Sự Mỹ quả là một yếu tố kích động rất quan hệ, đầy ý nghĩa. Nhưng chính quyền hồi đó vẫn còn tin tưởng quá nhiều thiện chí của ông bạn đồng minh Mỹ. Phía Phật giáo cũng vậy, khi thấy giới chức Mỹ ủng hộ cuộc tranh đấu của mình, thì không ai nghi ngờ thiện chí của họ.
Cùng ngày phái đoàn của Bộ Trưởng Việt Nam ra Huế thì từ chùa Từ Đàm cũng tổ chức mít tinh và đưa ra một bản tuyên gồm 5 điểm. Bản tuyên ngôn trở thành căn bản và đối tượng chính yếu của Phật Giáo năm 1963.
Với bản tuyên ngôn như vậy kèm theo lời tường trình báo cáo của ông Bộ Trưởng Bùi Văn Lương, TT Diệm tỏ vẻ tức giận cho rằng phía Phật giáo đòi hỏi quá đáng. Ông TT lại coi đây chỉ là một yêu sách của một khuynh hướng Phật Giáo cực đoan, quá khích. Tìm hiểu các khuynh hướng Phật giáo tại Saigon, ông TT Diệm lại càng quyết định không thể nhượng bộ vì từ ngày 10-15 tháng 6 giới lãnh đạo Phật Giáo Saigon vẫn còn tiêu cực, tuy có phản đối chính quyền qua bức công điện (cấm treo cờ) nhưng lại có vẻ hòa hoãn với chính quyền và đạt chủ trương một giải pháp ôn hòa trung dung. Trong khi đó TT Diệm lại chỉ quyết định tìm hiểu và nói chuyện với các vị lãnh đạo tiêu biểu qua cư sĩ Mai Thọ Truyền, Thượng Tọa Thích Thiện Hoa (chùa Ấn Quang) và Thượng Tọa Tâm Châu (chùa Từ Quang).
Thực tế để giải quyết vấn đề vẫn là Huế mà chính quyền Saigon vẫn tin tưởng Huế không có gì đáng ngại. Sự thực hoàn toàn khác. Không khí đấu tranh tại Huế bùng nổ vào ngày 8-5 lắng dịu sau đó nhưng đang âm ỉ như những sóng ngầm. Chùa Từ Đàm đã qui tụ được một lực lượng quần chúng đáng kể và rất đáng ngại đó là các thành phần các bạn hàng tiểu thương tại chợ Đông Ba, các anh em công nhân xe đò, xích lô đạp sau cùng một thành phần nòng cốt là các học tăng tại chùa Bảo Quốc, nơi mà các Thượng Tọa Trí Quang, Minh Châu đã được đào tạo. Các học tăng trở nên một lực lượng sung yếu. Thêm vào đó là tập thể sinh viên Huế. Mấy ngày đầu, tập thể sinh viên đại học Huế yên lặng và chỉ có sinh viên Phật tử tham dự, hơn nữa tháng 5 đã vào hè và sinh viên đang dự thi. Nếu như chính quyền giải quyết ngay mấy ngày đầu thì lực lượng trên khó lòng có thể móc nối liên kết với nhau được. Qua ngày 12, khi thấy chính quyền không có đàn áp và chỉ canh chừng, Huế bắt đầu vùng dậy và các lực lượng trên tự vốn nó phân tán nay liên kết với nhau và cùng hướng về đối tượng tranh đấu cho 5 điểm trong bản tuyên ngôn. Huế bắt đầu chuyển động.
Phía chùa Từ Đàm Huế thay đổi thái độ. Thượng Tọa Trí Quang gặp thẳng ông Ngô Đình Cẩn để thu xếp với mục đích làm thế nào chính quyền Trung Ương thu xếp trực tiếp với giới lãnh đạo Phật Giáo tại Huế mà không qua trung gian đại diện Phật Giáo tại Saigon.
Đề nghị này cũng hợp ý ông Cẩn, vì từ lâu ông Cẩn vẫn cho rằng Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam phải là miền Trung, chùa Từ Đàm mới là đầu não.
Các Thầy chùa Từ Đàm khi được tin mấy Thượng Tọa Tâm Châu, Thiện Hoa nhảy vào cuộc thì không khỏi lo ngại tiếng nói Phật Giáo Miền Trung sẽ không được chính quyền Trung Ương tôn trọng. Sau khi đã công bố bản tuyên ngôn 5 điểm, chùa Từ Đàm đã nắm được nhiều yếu tố thuận lợi. Dù vậy cho đến ngày 15-5, khi Phật giáo Saigon làm lễ cầu siêu cho các nạn nhân tại Đài Phát Thanh Huế không hiểu từ một nguyên do sâu xa nào, các Thầy chùa Từ Đàm bỗng nhiên thay đổi thái độ và trở nên hòa hoãn, muốn “nói chuyện” với chính quyền. Ông Ngô Đình Cẩn thỉnh cầu với Trung Ương yêu cầu điều đình trực tiếp với Huế qua hai Thượng Tọa Trí Quang và Thiện Minh. Nhưng Tổng Thống Ngô Đình Diệm từ chối đề nghị đó. Điều này làm cho ông Cẩn bối rối, khó xử. Cùng ngày 15-5, một phái đoàn Phật Giáo đại diện Nam Tông và Bắc Tông vào yết kiến Tổng Thống Diệm và đạo đạt nguyện vọng. Kết quả là không đi đến đâu. Saigon bắt đầu rục rịch bùng lên.
Ngôi sao Tâm Châu bắt đầu ló dạng. Một phong trào tranh đấu của Phật Giáo tại Saigon có đủ yếu tố lớn mạnh và có đủ điều kiện để làm mạnh với chính quyền.
Trong khi Huế, cái đinh của biến cố lại bắt đầu mờ nhạt, không tạo được cơ hội để tranh thủ với chính quyền Trung Ương. Dù vậy, Huế vẫn nắm căn bản “pháp lý” qua tổ chức Toỏng Hội Phật Giáo Việt Nam mà hội chủ là Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết.
Ngày 20-5, Hòa Thượng Hội Chủ đã đánh điện tín vào Saigon và một số Tỉnh báo tin để tâm tang và lễ cầu siêu cho các nạn nhân vụ nổ Đài Phát Thanh. Đó cũng là cách lên tiếng. Phía chùa Từ Đàm từ cuộc biểu tình ngày 10 đến ngày 21 cũng đã tự hiểu được rằng dù đã có cán bộ và quần chúng, Huế không thể đơn phương vận động được một phong trào chống chính quyền Ngô Đình Diệm. Về phía ông Cẩn qua trục giao liên Hà Thúc Luyện, Lê Trọng Quát, Lê Văn Nghiêm được biết rằng các Thầy Từ Đàm tuy bên ngoài mạnh miệng tỏ ra cương quyết nhưng rất muốn “thương thuyết” để bảo đảm chủ lực Huế. Chính quyền Trung Ương thì vẫn cố chấp “chỉ nói chuyện” với đại diện Phật Giáo tại Saigon. Do đó Thượng Tọa Trí Quang đến gặp ông Cẩn rồi tự tay Thượng Tọa viết một lá thư gửi TT Diệm nhờ ông Cẩn chuyển giao. Nội dung lá thư thật hòa hoãn khiêm nhường.
Qua cuộc tiếp xúc giữa Thượng Tọa Trí Quang, giới Phật Giáo Từ Đàm không đòi hỏi chính quyền phải thỏa mãn 5 điểm trong bản tuyên bố. Trái lại bên Từ Đàm đã hạ 5 điểm xuống còn 3 điểm và những điểm này đều có thể thỏa mãn được như “yêu cầu chính quyền bồi thường một cách xứng đáng cho gia đình những kẻ chết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền bù xứng đáng.”
Theo giới thân cận ông Cẩn thì nếu như chính quyền Trung Ương gặp trực tiếp giới Phật Giáo chùa Từ Đàm thì mọi việc thu xếp cũng không có gì khó khăn. Tuy nhiên Phật Giáo chùa Từ Đàm vẫn bị kích động qua một khuynh hướng “cứ làm tới”. Cũng khuynh hướng này tuy chỉ là một thiểu số nhưng đã đóng góp vai trò chủ động và lấn át những khuynh hướng ôn hòa. Thượng tọa Minh bắt đầu nao núng.
Saigon chuyển động, dần dần trở thành trung tâm biến cố. Trước hoàn cảnh này tuy, các Thầy chùa Từ Đàm đứng trước bài toán:
1/ Phải làm mọi cách để có mặt tại Saigon hoặc trực tiếp với chánh quyền hoặc có thể nắm một phần chủ động trong những biến chuyển tại Saigon.
2/ Nếu không được như vậy tạm thời thỏa hiệp và thương nghị với chánh quyền qua những đòi hỏi tối thiểu và nhượng bộ nhau.
Thực tế xuất hiện của Thượng Tọa Tâm Châu cũng như Cư sĩ Mai Thọ Truyền sẽ làm nghiêng ngả… nếu không nhanh tay hành động thì Phật Giáo miền Trung sẽ bị lép vế do đó nguyện vọng và đòi hỏi của Phật Giáo miền Trung sẽ trở thành cái cớ thúc đẩy những tập thể đứng lên lãnh “công đầu”. Bởi vậy bằng một giá nào các Thượng Tọa Trí Quang, Thiện Minh cũng phải nắm lấy thế chủ động và các vị này vẫn tin rằng ông Ngô Đình Cẩn sẽ bênh vực lập trường của Giáo Hội Phật Giáo Miền Trung. Mà thực vậy, ông Cẩn tìm mọi cách thuyết phục TT Diệm “tiếp kiến” riêng một phái đoàn Phật Giáo miền Trung. Nhưng ông Cẩn không còn đủ tín nhiệm để thuyết phục bào huynh. Biến cố 8-5 tại Huế, TT Diệm lại chỉ theo tường thuật một chiều và chật hẹp của Đức Cha Ngô Đình Thục. Ngày 7-5 khi tình hình có vẻ căng thẳng, Đại Tá Đỗ Cao Trí gặp riêng Đức Cha Ngô Đình Thục rồi bay thẳng về Saigon yết kiến TT Ngô Đình Diệm để trình bày nội vụ vào ngày đó đến khi Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu.
Đã hàng tháng trôi qua, TT Diệm vẫn được nghe trình bày nội vụ về một phía tức phía Đức Cha Thục và giới chức chánh quyền, cho nên TT Diệm lại càng tin mình đã làm việc chính đáng để tôn trọng quốc kỳ và thể thống quốc gia.
Một biến cố như vậy đáng lẽ phải cấp thời thu xếp cho êm đẹp vì càng kéo dài càng bất lợi. Và nó đã bất lợi thật: gần nửa tháng không giải quyết được gì. Biến cố đó đã đẻ ra bao nhiêu biến cố giây chuyền khác.
Chính quyền đã hết sức lầm khi ra lệnh cấm treo cờ, tuy cái lầm lẫn đó bất cứ một chính quyền thiếu sự cảnh giác có thể mắc với bộ máy công quyền thư lại làm việc quen chiếu lệ (routiner) điều đó có thể không đáng trách lắm trong bối cảnh một nước chậm tiến. Song điều đáng trách là khi chánh quyền đã làm lỗi lại không biết kịp thời khôn ngoan sửa chữa lỗi lầm, do đó mới bị tràn ngập các biến cố. Lúc ấy chính quyền “túng thế” cho rằng phải cương quyết bảo vệ uy quyền nếu cân bằng biện pháp mạnh. Khi biện pháp mạnh được xử dụng (trong hoàn cảnh tràn ngập biến cố) thì chính những biện pháp mạnh đó lại nuôi dưỡng biến cố và chỉ là cách đổ dầu thêm vào lửa.
Nếu như TT Diệm nghe lời ông Cẩn và chấp thuận nói chuyện với các Thượng Tọa miền Trung thì nội vụ đã không đổ vỡ lớn như vậy. Mặc dù, có sự yêu cầu được tiếp kiến của Thượng Tọa Trí Quang, TT Diệm lại trả lời không tiếp kiến, không thu xếp với phía Từ Đàm vì ông Tổng Thống cho rằng một vấn đề địa phương như vậy một ông Đại Biểu Chính Phủ cũng đã đủ tư cách để thu xếp.
Qua ngày 20-5, chính quyền địa phương đành thủ lợi đợi thượng cấp. Chính quyền Trung Ương vẫn không có một đường lối dứt khoát trong việc giải quyết vì không dựa vào sự phân tách thực tế khách quan mà chỉ dựa vào ý kiến và xúc cảm chủ quan của mình.
Những ngày đầu biến cố, phe Cộng Sản mới chỉ lên tiếng chiếu lệ (tuyên truyền có lợi cho phe mình và gây hoang mang chia rẽ trong hàng ngũ quốc gia và các tập thể dân chúng) nhưng CS đã bắt đầu điều khiển và phân tách thực tại khách quan của nội vụ để có thể nếu điều kiện thuận lợi nhất cho phép thì họ nhảy vào vòng. Trong khi đó, mấy ông CIA Mỹ “chìm” cố kết với báo chí Mỹ, Pháp qua các thông tấn và ký giả tại Saigon để đóng vai trò hoạt náo viên có lợi nhất cho “đối phương” hành động của họ.
Tại Sàigon ngày 21-5 một cuộc lễ cầu siêu tổ chức tại chùa Ấn Quang với sự tham dự của 5, 6 trăm tăng ni, cuộc rước linh từ rất trọng thể từ Ấn Quang qua Xá Lợi. Đó là dấu hiệu đầu tiên liên kết giữa các vị Phật Giáo ba miền Trung Nam Bắc. Trước đó, giới Phật giáo miền Nam vẫn còn e dè thận trọng tối đa. Theo giới thân cận tại chùa Xá Lợi cho biết, Cư sĩ Mai Thọ Truyền là chỗ tâm giao với Hòa Thượng Thích Thiện Hòa (Ấn Quang) mà Thượng Tọa Thiện Hòa được coi là vị tu hành không có tham vọng thế tục, bản chất rất hiền hòa phước hậu và ghét chính sự đa đoan.
Cư sĩ Mai Thọ Truyền vốn là bạn thân của Phó TT Nguyễn Ngọc Thơ, ông lại là cựu Tổng Thanh Tra hành chánh tài chánh Phủ Tổng Thống, ông không muốn dính dáng chính trị với Phật sự. Đã từ lâu cư sĩ họ Mai không “hoan hỉ” cho lắm về mấy Thầy tại chùa Từ Đàm. Có lẽ do kết quả từ những bất đồng ngấm ngầm qua một lần tham dự Hội Nghị Phật Giáo quốc tế.
Về phía ông Ngô Đình Nhu thì như thế nào? Ông Nhu chỉ thật sự dấn mình vào biến cố sau khi Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu (11-6-1963) và từ đó ông càng trở nên quyết liệt chơi ván bài “được ăn cả ngã về không”. Trước đó gần như ông không tỏ một thái độ rõ rệt. Sau vụ Huế 2 ngày, hôm ấy hình như là thứ sáu ông Nhu lên Đà Lạt. Lương Khải Minh có điện thoại cho ông Cao Xuân Vỹ nhờ ông Vỹ trình bày nội vụ cho ông Nhu hay “Toa tìm cách nói thế nào cho ông Cố Vấn rõ chuyện và nên tìm cách thu xếp cho êm đẹp không sẽ là cả một vấn đề nguy hiểm”.
Trên đường từ Dinh ra phi trường trên xe chỉ có ông Nhu và ông Cao Xuân Vỹ. Dịp này ông Vỹ đã tường trình nội vụ cho ông Nhu rõ đầu đuôi. Ông Nhu tỏ vẻ buồn bực nói: “Quyết định một việc vô chính trị như vậy mà không hỏi ý kiến ai” (ý nói TT Ngô Đình Diệm đơn phương quyết định một mình). Nhưng thật lạ lùng, thứ hai tuần sau khi trở về Saigon ông Nhu bỗng dưng thay đổi thái độ và trở nên cương quyết. Quả khó hiểu. Có nhẽ ông bị bà vợ chi phối quá nhiều. Khi ở Saigon một mình thái độ của ông ôn hòa và bực tức với biến cố mà ông cho rằng “thất chính trị”. Lúc lên Đà Lạt với bà vợ trong 3 ngày bỗng dưng ông thay đổi thái độ từ cực này đến cực kia.
Ngày 25-5 Ủy Ban Liên Phái bảo vệ Phật Giáo đưa ra một bản tuyên ngôn đặt trên hai căn bản chính yếu: 1- Ủng hộ 5 nguyện vọng Phật giáo qua bản tuyên ngôn 10-5-1963 (xuất phát từ chùa Từ Đàm) 2- Thề nguyện đoàn kết trong cuộc tranh thủ hợp pháp bất bạo động để tranh thủ cho đến khi được 5 nguyện vọng ấy. Một loạt lễ cầu siêu được tổ chức theo giây chuyền từ chùa xá Lợi đến Giác Minh và các chùa khác trong Đô Thành.
Trụ sở của Ủy Ban Liên Phái đặt tại chùa Xá Lợi vì đây là chùa lớn đồng thời cũng là trụ sở của chi hội Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại miền Nam vì chùa Ấn Quang lúc ấy còn quá nhỏ. Chùa Từ Quang (nơi Thượng Tọa Tâm Châu trụ trì) lại ở trong con hẻm (đường Phan Thanh Giản). Thượng Tọa Tâm Châu trở thành Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái bảo vệ phật Giáo vì Thượng Tọa được coi nhưng một trung dung giữa “trục” Phật giáo miền Trung và các tôn phái Phật giáo khác trong Nam. Sự xuất hiện của Thượng Tọa Tâm Châu được coi là nhân vật thuận lợi cho nhịp cầu thông cảm giữa các tôn phái lúc bấy giờ. Vả lại trước năm 1963 và trong 9 năm chế độ Ngô Đình Diệm, Thượng Tọa Tâm Châu được coi là vị lãnh tụ tu hành theo đúng tôn chỉ của Đức Thế Tôn. Thượng Tọa Tâm Châu trụ trì trong một ngôi chùa nhỏ hàng ngày dịch kinh sách và tu đạo. Thượng Tọa Tâm Châu không có liên hệ với TT Ngô Đình Diệm, nhưng Thượng Tọa cũng không phải là người chống lại chế độ đó. Trong 9 năm chính quyền Ngô Đình Diệm không có hoài nghi về Thượng Tọa Tâm Châu. Trong kỳ bầu cử Tổng Thống, ông có theo BS Tuyến đến thăm Thượng Tọa Tâm Châu. Dịp này BS Tuyến ngỏ ý thỉnh cầu Thượng Tọa chỉ ủng hộ liên danh Ngô Đình Diệm – Nguyễn Ngọc Thơ. Thượng Tọa hoan hỉ nhận lời. Thượng Tọa Tâm Châu trở thành chủ tịch UBLP Phật Giáo đạt được một lợi điểm đối với chính quyền vì Thượng Tọa thuộc thành phần chống Cộng và cũng từng đứng trong phong trào liên tôn chống Cộng Sản (năm 45-46). Thượng Tọa lại là chỗ quen biết của Đức Cha Lê Hữu Từ cũng như Linh Mục Hoàng Quỳnh.
Tuy vậy sự xuất hiện của hai Thầy Tâm Châu và Đức Nghiệp đã làm cho một số người tại Huế không vừa ý vì vậy hiển nhiên là tiếng nói phật Giáo miền Trung không được tôn trọng theo đúng tư thế (vì Huế mới là khởi điểm của biến cố). Nhận biết được cái lợi cho chính quyền nếu tìm cách đưa được các Thầy Từ Đàm vào Saigon và đích thân tham dự UBLP hầu có thể cân bằng “cán cân ảnh hưởng và thế lực” Lương Khải Minh tiếp tục thuyết phục TT Diệm chấp thuận việc đưa các Thầy ở Huế vào Saigon để tham dự cuộc nói chuyện với chính quyền. Ai có thể làm việc giao liên móc nối này? Lương Khải Minh đề nghị Bác Sĩ Trương Khuê Quan, (Giám đốc Xã Hội thuộc Bộ Quốc phòng) đảm nhận công tác.
Ngày 30-3 các cấp lãnh đạo sáu tập đoàn Phật Giáo thì hành chỉ thị của Hòa Thượng Hội chủ THPGVN tuyệt thực 48 giờ kể từ 4 giờ cùng ngày.
Trước biến cố 5-8, phía Xá Lợi tỏ ra thận trọng. Sau khi tiếp xúc với ông Bộ Trưởng Nội Vụ Bùi Văn Lương (với tư cách riêng và tâm tình) giới đầu não hội Phật Học Việt “cảnh giác” với một số bằng hữu ở chùa Xá Lợi là hãy coi chừng, chớ có nhẩy vội vào vòng không rồi mắc mưu ông Ngô Đình Cẩn. Họ đề cao cảnh giác như vậy vì vẫn hoài nghi và có mặc cảm với một số tổ chức do ông Cẩn đỡ đầu. Biết đâu từ biến cố 8-5 lại không có người của ông Cẩn nhân dịp biến cố này sẽ lợi dụng để tung một mẻ lưới lớn? Kinh nghiệm chính trị đã cho phép hoài nghi như vậy vì trong những biến cố chính trị chính quyền biết đâu không cho những người nằm vùng để khuấy động?
Những ngày đầu của biến cố, phó TT Thơ vẫn đứng ngoài lề có lẽ ông muốn tránh tiếng và có lẽ cũng không muốn dây dưa đến một vấn đề có liên hệ đến miền Trung (thuộc phạm vi ông ngô Đình Cẩn).
Ngoài ông Bộ Trưởng Nội Vụ có phận sự thu xếp, TT Diệm còn ủy cho Bác Sĩ Võ Vinh Hoa tìm cách dàn xếp riêng với trục Thượng Tọa Thiện Hòa và cư sĩ Mai Thọ Truyền. Bác sĩ Hoa cũng là y sĩ riêng của TT Ngô Đình Diệm (sau Bác Sĩ Bùi Kiện Tín) BS Hoa có nhiều liên hệ tình cảm với Thượng Tọa Thiện Hòa cũng như cư sĩ Mai Thọ Truyền. Gia đình ông lại quen biết với Thượng Tọa Trí Quang (qua gia đình ông Võ Văn Hoàng- Phòng Thương Mại Saigon) BS Hoa sau những lần thăm dò đã trình cho TT Diệm rõ là Cư sĩ Mai Thọ Truyền vẫn giữ vững lập trường ôn hòa. Sở dĩ phải có thái độ với chính quyền vì không thể không chứng tỏ trong đoàn kết tương thân với Phật Giáo miền Trung. Hơn nữa Cư sĩ Mai Thọ Truyền cũng là thành phần lãnh đạo của Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Tổng đoàn Sinh Viên Phật Tử từ Huế gởi tâm thư cho các sinh viên toàn quốc hô hào ủng hộ cuộc tranh đấu cho tự do tín ngưỡng đồng thời gởi một bản kiến nghị lên TT Ngô Đình Diệm sau một phiên họp khoáng đại tại chùa Từ Đàm sáng 31-5. Điều 4 trong bản kiến nghị có ghi: “Yêu cầu chánh quyền ra lệnh triệt để đình chỉ những mánh lới trẻ con, thiếu tri thức của cán bộ đối với tín đồ Phật Giáo trong cuộc tranh đấu. Vì chính những mánh lới đó không lừa bịp được ai mà chỉ làm mất uy tín của cán bộ và của chính phủ” (Bản kiến nghị có chữ ký của đại diện 6 phân khoa và các trường như Cộng Đồng Mỹ Thuật, Cán Sự Y Tế, Nữ Hộ Sinh Quốc Gia, Quốc Gia Âm Nhạc, bản kiến nghị trên đây là dấu hiệu đầu tiên cho biết tập thể Sinh Viên Học Sinh bắt đầu nhập cuộc. Đây cũng là lời phản kháng thứ nhất của giới sinh viên trong suốt 9 năm chế độ Ngô Đình Diệm và cũng là lời lẽ xúc phạm nặng nề nhất vì trong 9 năm cầm quyền TT Ngô Đình Diệm chưa hề nhận được một kiến nghị nào công khai bày tỏ sự phản kháng như vậy.
Trên thực tế, bất cứ một phong trào phản kháng nào của tập thể Sinh Viên dù lớn mạnh và rộng đến đâu cũng không thể xoay chuyển được thế cuộc, không thể lật đổ được chế độ (phong trào nổi loạn năm 1967 của Sinh Viên Pháp là một thí dụ) nếu như phong trào đó không gắn liền với một thái độ chống đối định hình khác. Nhưng đây thì lại khác, tập thể Sinh Viên Học Sinh đã dễ dàng bị lôi kéo và phát động mạnh mẽ trong cuộc tranh thủ của Phật Giáo và Phật Giáo miền Trung lại có sẵn một khối vẫn động trong tập thể Sinh Viên Huế. Khối ấy tuy nhỏ bé (là Tổng đoàn Sinh Viên Phật Tử) nhưng lại có đủ yếu tố khích động và gợi cảm hứng tranh đấu cho tất cả tập thể. Sinh Viên Huế nhận thức được tầm quan trọng của tập thể Sinh Viên nếu tập thể này nhập cuộc cho nên một vài nhân vật cận thân của TT Diệm tìm mọi cách thuyết phục Tổng Thống giải quyết mau chóng.
Tập thể Sinh Viên trước năm 1963 tương đối thuần túy. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã thành công trong việc “ổn định” Đại Học. Qua Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, tuy không phải là một thực lực nhưng chính quyền lúc ấy bằng cách này hay cách khác có thể nói đã “nắm” được Tổng Hội. Tập Thể Sinh Viên Huế không tổ chức được như Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn nhưng lại qui tụ quanh uy tín của Linh Mục Cao Văn Luận.
Sinh Viên Huế trước năm 1963 đươc coi là chăm học, kỷ luật và hoạt động thuần túy học đường (tuy CS có thâm nhập nhưng chỉ là thiểu số lén lút không dám xuất hiện dù với một chiêu bài nào, không tạo được một ảnh hưởng lớn nào). Bỗng dưng Sinh Viên đứng lên phản kháng, nhập cuộc. Lý do dễ hiểu là họ bị xúc động qua biến cố 8-5 lại bị mặc cảm thụ động vì bấy lâu nay đã ỷ lại chính quyền đồng thời người dẫn đạo sinh viên như Linh Mục Cao Văn Luận thì nay Linh Mục “buông xuôi” không có ý kiến trong việc Sinh Viên phản kháng (dù Sinh Viên Phật Tử mà Đại Học Huế theo thành phần tôn giáo thì đa số là Phật Giáo). Lý do sự buông xuôi của Linh Mục Cao Văn Luận cũng dễ hiểu vì Linh Mục Luận tuy là chỗ thân tình sâu xa với ông Ngô Đình Cẩn và TT Diệm nhưng Linh Mục lại có nhiều mâu thuẫn “cá tính” với Đức Cha Thục (nhất là từ khi Đức Cha Ngô Đình Thục trở về Huế trọng nhậm giáo tỉnh Huế). Lý do khác nữa là vì những mâu thuẫn giữa Công Giáo và Chánh Quyền. Đồng thời cũng vì “liên đới thiện cảm” với Phật Giáo cho nên Linh Mục Viện Trưởng Đại Học Huế thế tất không thể chống lại những hành động phản kháng chính quyền và ủng hộ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam của Tập thể Sinh Viên. Cho nên Sinh Viên được “buông thả” để nhẩy vào vòng.
Khi tập thể Sinh Viên nhẩy vào vòng chiến, chính quyền nào cũng không thể không quan tâm đặc biệt. Vấn đề căn bản lúc ấy là phải giải quyết vụ Phật giáo thì mới có thể làm xẹp được “phong trào” (lúc ấy hãy còn giới hạn) phản kháng của sinh viên (đồng thời cũng nhắm vô hiệu hóa sự sâm nhập của Cộng Sản một khi phong trào Sinh Viên có cơ hội phát động lan rộng)
Trong khi các khối quần chúng kể cả quần chúng Phật tử đang trong tình trạng thụ đông, do dự hoặc tê liệt, giới lãnh đạo Phật giáo khó lòng có thể tạo được một cuộc vận động lớn dù cho một đối tượng thiêng liêng tôn giáo. Vậy thì chỉ còn Sinh Viên là một khối “quần chúng” chọn lọc tuy vô định hình trên lý thuyết nhưng trên thực tế sinh viên trở thành một khối có khả năng vận động (manoeuvre) nhờ môi trường sinh hoạt, nếp sống hằng ngày tương đối thuần nhứt lại hiếu động, dễ tin, đầy nhiệt huyết.
Khối “quần chúng chọn lọc” này luôn luôn là con mồi thèm khát của Cộng Sản và bất cứ thế lực nào cũng muốn nhảy vào gây ảnh hưởng và sách động (dĩ nhiên CS thuộc nằm lòng phương thức tri vận và sách động sinh viên).
Ngay từ đầu biến cố, chính quyền Ngô Đình Diệm đã có lợi điểm là tập thể sinh viên không tham dự gần như kẻ bàng quan. Ở Huế từ 8 đến 30-5, Sinh Viện Phật Tử chỉ tham dự lẻ tẻ và với tư cách Phật Tử.
Khởi từ tháng 6, vì không giải quyết mau chóng và kéo dài biến cố cho nên chánh quyền mất lợi điểm trên khi tập thể sinh viên đứng vào hàng ngũ tranh đấu của Phật Giáo, đồng thời CS thì muốn thâm nhập và “ăn có” trong cuộc tranh đấu này một cách hợp pháp và thuận lý cho nên họ đã lanh tay bố trí kế hoạch và khởi điểm của kế hoạch ấy là đi vào cửa ngõ vốn bao giờ cũng bỏ ngỏ theo đúng tinh thần đại học.
Tiên liệu những khó khăn ấy và cái sức mạnh phức tạp vạn nan của khối Sinh viên học sinh cùng với khối quần chúng “định hình” Phật Tử (một khi hai khối này liên kết) cho nên khởi từ 22-5, một vài nhân vật thân cận của TT Diệm tìm cách “ổn định”. Mà ổn định trong một biến cố tế nhị và phức tạp như vậy thì phương thức chính trị phải được đặt thành trọng tâm hoạt động.
Ổn định trong trường hợp này không có nghĩa là tìm cách đối phó và chiếu lệ. Ông Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần “hoàn toàn” đồng ý với ý kiến lập trường trên. Ông Thuần trình bày với TT Diệm, ông TT không do dự gì cả và chấp thuận ngay nguyên tắc thương nghị và hòa hoãn với Ủy Ban Liên Phái.
Vào một buổi sáng đầu tháng 6 khoảng 8g30 BS Tuyến được TT gọi điện thoại bảo vào Dinh có việc gấp. Linh tính cho ông biết là đề nghị hòa giải chắc chắn đã được Tổng Thống chấp nhận.
– Bây giờ anh tính ra sao?
Lời hỏi đầu tiên của TT Diệm. BS Tuyến suy nghĩ ít phút rồi trình bày:
– Thưa Cụ bên phía Phật Giáo cũng muốn hòa giải. Chuyện này cũng không có gì… kéo dài mãi sẽ bất lợi, Cộng Sản nó sẽ len lỏi vô.
Tổng Thống Diệm trầm ngâm. Vẻ mặt ông có vẻ lao lung lắm. Trong căn phòng quen thuộc ấy chỉ có ông Nguyễn Đình Thuần, BS Tuyến. Bẵng đi một dạo, đã năm sáu tháng trời BS Tuyến mới vào Dinh gặp Tổng Thống cùng mục đích như ông Thuần. TT Diệm quay sang hỏi Bác Sĩ Tuyến:
– Ý anh thế nao?
Bác Sĩ Tuyến trình bày thẳng thắn vấn đề và những lợi hại của nó. Tổng Thống yên lặng chừng 5, 7 phút. Sau đó, BS Tuyến đưa ra đề nghi.
– Chính phủ nên chính thức cử người đại diện để nói chuyện trực tiếp với họ.
TT Diệm hỏi: Ai có thể đại diện cho chính phủ? Ông Thuần làm đi?
Ông Nguyễn Đình Thuần nãy giờ vẫn ngồi im lặng.
– Để giữ thể thống cho bên Phật Giáo và cũng là cách tạo thông cảm dễ dàng cho việc thu xếp xin Cụ đề cử một người nào có bề thế đại diện Cụ.
TT Diệm băn khoăn: Ai đại diện được bây giờ?
Ông Nguyễn Đình Thuần: Tôi thấy chỉ có cụ Phó (tức PTT Thơ) là đầy đủ uy tín để đại diện Cụ.
TT Diệm đồng ý ngay: Ừ , ông Phó được đấy. Ông (tức ông Thuần) cũng phụ vào.
BS Tuyến trình bày qua một vài phương thức thành lập một uỷ ban hòa giải. TT Diệm lại hỏi:
– Ai nữa chứ, chỉ có một mình ông Phó thôi à?
Đến đây thì BS Tuyến cũng như Ông Nguyễn Đình Thuần đều không dám đưa ra ý kiến đề cử ai. TT Diệm cũng như hai ông đều yên lặng lâu cả 10 phút. Ông TT cũng không tự ý cắt cử thêm ai.
Tổng Thống Diệm bấm chuông gọi ông Ngô Đình Nhu qua để tham khảo ý kiến rồi cùng quyết định.
Vẫn một vẻ “lừng khừng” muôn thuở, ông Nhu vào phòng Tổng Thống hút thuốc lá, vẫn yên lặng. TT Diệm hỏi:
– “Chú nghĩ sao về việc này?” Ông Nhu thủng thỉnh đáp: “Như thế cũng được”.
TT Diệm lại hỏi: “Có ông Phó còn phải kiếm thêm ai nữa chớ?”
Ông Nhu vẫn yên lặng, mãi một lúc ông mới đáp: “Việc này thuộc Bộ Nội Vụ thì đặt ông Nội Vụ vô”
TT Diệm đồng ý ngay. Thế là thành phần đai diện chính phủ đã có ba người, ông Phó TT Thơ, ông Nguyễn Đình Thuần và ông Bùi Văn Lương. Trong lúc đang bàn tính thì ông Nguyễn Đình Thuần được báo tin có Phó Đại Sứ Mỹ xin gặp gấp. Đó là ông Phó Đại Sứ Truchart. Vì Đại Sứ Notlting đi vắng nên ông Phó thay mặt chuyển giao đến Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa một bức công điện của của Chính phủ Hoa Kỳ. Bức công điện đó cho biết dư luận bên Mỹ rất bất lợi cho Việt Nam và gây khó khăn cho chính phủ Mỹ qua vụ Phật Giáo cho nên chính phủ Mỹ hối thúc chính phủ Việt Nam phải sớm giải quyết cho xong cơn khủng hoảng này.
Ông Thuần trở vào phòng, trình Tổng Thống bức công điện kể trên. Đọc xong vẻ mặt ông Tổng Thống càng thêm đăm chiêu. Mọi người lại trở về vấn đề cũ quyết định thành lập một Ủy Ban Liên Bộ này.
Về phía chính quyền như vậy đã xong. Bây giờ là đến việc tìm cách nào để đưa mấy Thầy từ Huế vào để nói chuyện với chính quyền trong Ủy Ban Liên Phái. BS Tuyến đã trình bày những lợi điểm của việc này như sau: 1/ Đưa mấy Thầy chùa Từ Đàm vào đây để thương nghị với chính phủ trên một cấp bậc cao nhất (qua Phó TT Thơ) tức là xoa dịu tự ái địa phương của mấy Thầy. 2/ Huế mới là trung tâm của biến cố, nếu chữa được tận gốc thì mọi sự sẽ êm. 3/ Mấy Thượng Tọa như Thích Trí Quang, Thiện Minh được coi là thành phần nòng cốt của Tổng Hội Phật Giáo Miền Trung. Khi đưa mấy Thượng Tọa đó vào Saigon tức là biệt lập được mấy Thượng Tọa chủ chốt đó với quần chúng Phật Tử.
Nhưng ai đi tiếp xúc cho tiện. Nhân vật này thật quan trọng vì phải hội đủ điều kiện mới có thể thành công trong sứ mạng. Tổng Thống cũng như ông Nhu để tùy quyền BS Tuyến và ông Thuần lựa chọn. BS Tuyến đề nghị BS Trương Khuê Quan. Ông trình bày với Tổng Thống và ông Nhu:
– Ông Quan có quen biết nhiều phía ngoài đó. Ông lại thuộc Bộ Quốc Phòng nên mọi sự đi lại di chuyển sẽ dễ dàng hơn mà lại không ai để ý.
Đề nghị này được chấp thuận và sau đó ông Nguyễn Đình Thuần ký sự vụ để BS Trương Khuê Quan ra Huế tiếp xúc với chùa Từ Đàm. Tổng Thống Diệm thỏa mãn với quyết định này lắm. Theo Lương Khải Minh, nếu không có những ngộ nhận và những cái vụn vặt tạo ra ngộ nhận và một vài “tai nạn” đáng tiếc thì Ủy Ban Liên Bộ đã thành công và vụ Phật Giáo không đến nỗi nổ to như vậy. Nhưng lịch sử chuyển vần lại không có chữ “nếu”, nếu như thế này nếu như thế kia những chữ nếu đó đều ở bên lề biến cố lịch sử. Nếu lịch sử là một sự tái diễn không ngừng thì người đời sau có thể suy ngẫm rất nhiều và có ích rất nhiều khi đặt mình vào lịch sử đã qua để tự vấn “nếu như thế như thế… ta phải làm thế nào khi gặp những khó khăn tương tự như chế độ Ngô Đình Diệm.”
Bước qua năm 1963, thế lực Mỹ mỗi ngày một lớn thì đồng thời uy thế của các Tướng Tá Việt Nam lúc ấy cũng bắt đầu lớn dần, tham vọng cũng không nhỏ và bắt đầu hướng qua một chân trời mới lạ khác tức chính trị. Khi một số Tướng Tá có tham vọng làm chính trị thì tình trạng càng rối loạn bao nhiêu càng kéo dài bao nhiêu càng là một cơ hội tốt nhất cho họ nhảy vào vòng. Lịch sử 1963 đã chứng minh như vậy là lịch sử còn tái diễn nhiều lần như vậy nữa khi mà xứ sở này còn bị mê hoặc bởi thứ dân chủ lòe loẹt phấn son.
Lúc bấy giờ, phía tòa Đại Sứ Mỹ, Đại Sứ Nolting hoàn toàn ủng hộ chế độ Ngô Đình Diệm. Ông giữ vững lập trường là không thể lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm trong hoàn cảnh sôi động lúc bấy giờ. Phái đoàn Anh Quốc của Sir Robert Thomson (một nhà chiến lược về chiến tranh du kích) cũng giữ một lập trường ủng hộ tích cực chế độ Ngô Đình Diệm. Sir Robert Thomson tin tưởng vào sụ thành công cùa Ấp Chiến lược và Ấp Chiến Đấu (nhất là ở vùng 2 và vùng 1). Đại Tá Richaedsson, trưởng phòng CIA cũng như Đại Tướng Harkins (tư lệnh MACV) đều là những người cùng một lập trường như Đại Sứ Nolting. Tuy nhiên, một số viên chức Mỹ khác bị chi phối bởi lập trường và thái độ của Harriman, Mac Namara, Hilsman đã không ngừng chống đối chế độ Ngô Đình Diệm và họ đã tìm cách móc nối với các tướng lãnh mua một số nhân vật Mỹ hoạt động chìm. Thí dụ như trục liên lạc Lu Conein và Trần Văn Đôn. Ông Lu Conein vẫn thường bình phẩm chế độ Ngô Đình Diệm là độc tài, gia đình trị. Ông ta thúc đẩy thực hiện một số chủ trương dân chủ hóa VN. Việt Nam phải có một thể chế dân chủ như nền dân chủ Hoa Kỳ.
Dạo ấy, các chính khách đối lập thật khó lòng liên lạc được với Mỹ vì không thể lọt qua được con mắt của giới an ninh chìm, nổi. Riêng các Tướng Tá thì được tự do gặp gỡ giới chức Mỹ mà ít ai lưu tâm với lý do họ là những cố vấn về Quân Sự và An Ninh.
Biến cố Phật Giáo kéo dài trong một hoàn cảnh bất lợi cho chế độ Ngô Đình Diệm như vậy cho nên, khi TT Diệm quyết định dàn xếp ngay thì mọi người đều tin tưởng mọi việc sẽ êm đẹp. Nhưng bất trắc phi lý của lịch sử thì không một ai có thể ngờ được.
Việc lựa chọn BS Trương Khuê Quan ra Huế tiếp xúc với Từ Đàm là một “lựa chọn chính trị”.
Nói là chính trị vì một sự tiếp xúc như vậy sẽ dễ dàng đạt được sự cảm thông tín nhiệm. Trong một viễn cố thì phe tranh đấu ở đâu và thời nào cũng vậy không mấy khi tin tưởng nơi thiện chí của chính quyền.
Cho nên trước khi công khai dàn xếp thì phải có sự vận động dàn xếp ngầm. Người tiếp xúc vận động có thể là một ông Tổng Bộ Trưởng và tuyệt đối không để cho mấy giới chức an ninh Cảnh Sát dính vô. Người đi tiếp xúc phải hội đủ ba yếu tố: 1/ Người của chính quyền (ở một địa vị lu mờ). 2/ Phải có sự thâm tình tri giao của phe đối lập. 3/ Phải có đức tính của một người mai mối khéo léo, linh động. Cuộc tiếp xúc càng diễn ra âm thầm bí mật càng dễ dàng có kết quả tốt. BS Quan đã hội đủ được mấy yếu tố đó. Như trên đã viết BS Quan vốn là chỗ tâm giao với Thượng Tọa Thiện Minh không tin nơi chính quyền thì ít nhất cũng tin nơi thành tín của một cá nhân thân thiết của mình.
Về phía TT Ngô Đình Diệm, ông tin tưởng mọi việc sẽ êm xuôi và trao trách nhiệm cho bộ ba Thơ, Thuần, Lương đều là “cỡ nặng” của chính quyền.
Ông Ngô Đình Nhu không có một thái độ rõ rệt. Nhưng Bà Nhu bắt đầu hung hăng và tìm mọi cách nhẩy vào vòng. Qua những biến cố lớn như vụ Tướng Minh 1954 cuộc đảo chánh 11-11-1960 bà Nhu tỏ ra là một người có tài ứng biến mau lẹ và có nhiều sáng kiến tổ chức. Nhưng qua hai biến cố trước, bà Nhu vẫn trong bóng tối nay thì bà tự cho là mình đã có lực lượng lớn tức Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới. Trên thực tế phong trào này hữu danh vô thực nhưng với Bà Nhu với lòng kiêu hãnh và thái độ nghênh ngang của bà thì Phụ Nữ Liên Đới là một đoàn thể mà chính quyền phải kiêng nể. Đoàn thể ấy phải có tiếng nói tham dự vào mọi diễn tiến của lịch sử.
Trong một buổi họp vào trung tuần tháng 7-1963. Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới với đầy đủ nhân viên Ban Chấp Hành Trung Ương (vào cuối tháng 5 âm lịch) Bà Nhu với lời nói “chanh chua” gay gắt cho rằng, nếu chính quyền nhượng bộ, thỏa mãn yêu sách của Phật Giáo thì phong trào của bà cũng sẽ làm áp lực cũng đưa ra một số yêu sách buộc chính quyền phải thỏa mãn nhượng bộ. Trong phiên họp đó. Bà Nhu chỉ trích gay gắt mấy nhà Sư với những ngôn ngữ không được mềm mỏng.
CUỘC HÒA GIẢI ÂM THẦM
Cuộc đấu tranh của Phật Giáo đã biến chuyển mau lẹ. Đầu tháng 6 riêng tại Huế và miền Trung phong trào đấu tranh đã lan rộng đến các Tỉnh, Quận, Xã. Thành phần sinh viên học sinh cũng bắt đầu nhảy vào cuộc, chính quyền Sài Gòn vẫn lạc quan, tin là có thể giải quyết êm đẹp.
Nhưng cái đinh của biến cố vẫn là Huế và chùa Từ Đàm trở thành Tổng Hành Dinh của cuộc tranh đấu.
Điều rõ rệt là các Thượng Tọa miền Trung muốn nói chuyện trực tiếp với chính quyền. Khi thấy chính quyền từ 8-5 đến 30-6 chỉ tìm cách điều đình với các nhà lãnh đạo Phật Giáo Miền Nam thì các Thượng Tọa chùa Từ Đàm bắt đầu lo lắng.
Đầu tháng 6, Thượng Tọa Thiện Minh vào Saigon tìm một con đường riêng để trực tiếp nói chuyện với chính quyền. Nhưng về phía ông Ngô Đình Nhu thì cho rằng: Không thể nào điều đình với mấy ông Thượng Tọa như Thượng Tọa Thích Thiện Minh và Trí Quang được. Trước đây, ông Nhu không quan tâm đến các vị Thượng Tọa vì việc này đã có “chú Cẩn” lo liệu. Từ lúc biến cố bùng nổ, ông Nhu mới bắt đầu tìm hiểu vấn đề nhân sự Phật Giáo. Ông Nhu có định kiến rằng mấy Thượng Tọa đó có hồ sơ khả nghi và có nhiều liên hệ với Giáo Sư Lê Đình Thám (chủ tịch hội Seerba trước năm 1945 sau theo kháng chiến và tập kết ra Bắc). Qua báo cáo ông Nhu lại có định kiến thêm rằng: Những phương thức đấu tranh từ ngày 8-5 đến đầu tháng 6 đều là những phương thức của một chiến lược trường kỳ tranh đấu với xuất sứ rất khả nghi.
Tại Huế ngày 30-5 chùa Từ Đàm bị cô lập. Ít ngày sau điện nước cũng bị cúp luôn. Một số đông thanh niên Phật Tử rút vào chùa rồi võ trang bằng gậy gộc đá… để lo việc phòng bố. Số lương thực trong chùa lúc đó có thể kéo dài được hai tháng. Ngày 4-6 lại có biểu tình xô xát tại Huế, lực lượng an ninh phải dùng lựu đạn cay giải tán, một số bị thương nhẹ, nhưng chỉ vài ngày sau báo chí Mỹ lại làm ùm lên. Tại Saigon dư luận lại được dịp lan truyền mau chóng và rất khích động như các tăng ni bị bắt, bị thương và bị cầm tù bằng những hình thức dã man của nhà cầm quyền địa phương.
Quả thực chính quyền Thừa Thiên lúc đó quá yếu. Trước kia nhận lệnh trực tiếp từ ông Cẩn thì nay phải đợi lệnh từ Trung Ương. Ông Nguyễn Văn Hà người thay thế Nguyễn Văn Đẳng lại ôn hòa và có rất nhiều tình cảm với các Thượng Tọa bên chùa Từ Đàm cho nên ông không thể mạnh tay đàn áp dù cuộc biểu tình ngày 4-6 cũng không đông đảo bao nhiêu.
Dư luận báo chí ngoại quốc như thế nào? Tờ Công Luận tại Đài Bắc liên tiếp đăng tải những bài bình luận lên án chính quyền Ngô Đình Diệm và cho rằng chính quyền kỳ này kỳ thị tôn giáo, đã đặt Thiên Chúa giáo lên hàng đầu và vi phạm Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. “Trước khi băng hà Đức Giáo Hoàng Jean XXIII đã lên tiếng nhân loại không thể có kỳ thị nhưng đối với tín ngưỡng của anh em TT Diệm thì lời nói của Đức Giáo Hoàng trở thành vô nghĩa” (Công Luận 1-6-1963). Những tờ báo uy tín như Exxpress News China Post, China News đều đăng những hình ảnh, bình luận tin tức hoàn toàn bất lợi cho chính quyền Ngô Đình Diệm. Báo chí Thái Lan tỏ ra dè dặt hơn nhưng báo Thái Ngữ (ngày 23-5-63) đã lên tiếng nghiêm chỉnh cảnh cáo “biến cố Phật giáo nếu không sớm giải quyết sẽ bất lợi lớn cho chính quyền vì chắc chắn Cộng Sản sẽ nhẩy vào cuộc lợi dụng sự bất mãn của Phật giáo để làm lớn chuyện”. Tại Miên, Sihanouk lợi dụng ngay vụ Phật Giáo để gây rắc rối. Báo chí từ Cao Miên từ thiên tả đến thiên hữu đều lên tiếng công kích chính quyền Ngô Đình Diệm. Từ tờ thiên tả La Depêche du Cambodge đến Kampuchia và tờ Neak Cheat Niyum (của chính quyền) nhất loạt công kích chính quyền Ngô Đình Diệm.
Từ đầu tháng 6 tại Nam Vang liên tiếp tổ chức cuộc mít tinh tại ngôi chùa lớn Onnalum để lên án chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo.
Báo chí Mỹ lại càng công kích mãnh liệt hơn nữa như tờ New York Time, Washington Post, New York Herald Tribunne, đã đứng hẳn về phía Phật Giáo. Tờ New York Time 31-5 thì cho rằng cuộc tranh đấu của Phật Giáo Việt Nam đã chứng tỏ dân chúng đã bất mãn sâu xa với chế độ. Ảnh hưởng và uy tín của Hoa Kỳ sẽ bị tổn thương và Mỹ không thể đứng ngoài vòng cuộc tranh chấp (có nghĩa là Mỹ phải nhúng tay vào).
Tầm nhìn của báo chí Mỹ cũng không khác bao nhiêu lập luận của các hãng thông tấn UPI, AP, CBS News nghĩa là hoàn toàn chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm và như tờ US News and World Report lại cả quyết rằng: “Các nhà lãnh đạo Phật Giáo chỉ yêu cầu TT Diệm chấm dứt sự kỳ thị tôn giáo nhưng ngược lại Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã đàn áp mạnh các nhà lãnh đạo Phật Giáo. Do đó chính quyền của ông đã tách rời Thiên Chúa Giáo ra khỏi tập thể đại đa số Phật Giáo đồ tại miền Nam” (24-6-63). Tờ báo trên còn lên tiếng như thế này: “Qua cuộc tranh chấp giữa chính quyền và Phật Giáo, Cộng sản sẽ tuyên truyền với dân chúng rằng Diệm tiêu diệt Phật giáo để mở đường cho Đế Quốc Mỹ xâm lăng miền Nam Việt Nam”
Báo chí Mỹ thì như vậy. Giới chức Mỹ tại Tòa Đại Sứ luôn luôn áp lực với TT Diệm phải điều đình với Phật giáo, phải mở rộng nội các, phải ban hành dân chủ rộng rãi. Vấn đề quan trọng hơn nữa là phải đẩy vợ chồng Nhu ra khỏi nước.
Khi được biết Tổng Thống Diệm tìm cách điều đình trực tiếp với mấy Thượng Tọa miền Trung thì ông Nhu không đồng ý. Ông cho rằng không thể nhượng bộ được và mấy vị Thượng Tọa này không “thuần túy tu hành”.
Tuy vậy Tổng Thống Diệm vẫn quyết định theo ý riêng của ông.
Ngày 5-6, Bác sĩ Trương Khuê Quan được gọi vào Dinh để gặp Tổng Thống. Giới thân cận cho biết, không khí hôm đó thật nặng nề khó thở.
Trong căn phòng Tổng Thống, ông Nhu ngồi riêng trên một ghế bành, nét mặt đăm chiêu khó chịu. Ông mặc chiếc áo sơ mi Hongkong ngắn tay im lặng không nói một lời. Bộ Trưởng Bùi Văn Lương đứng bên Tổng Thống Diệm. BS Trương Khuê Quan bước vào chào theo lối nhà binh (ông là một Y Sĩ Trung Tá) Tổng Thống Diệm gật đầu rồi chỉ ông ngồi đối diện với Tổng Thống. Tổng Thống Diệm hỏi ngay:
– Tôi nghe Trung Tá quen biết với mấy Thầy ở chùa Từ Đàm phải không?
BS Quan đáp:
– Dạ thưa có, gia đình tôi quen biết các Thầy từ lâu.
Tổng Thống Diệm nói tiếp:
– Trong lúc khó khăn như thế này tôi muốn nhờ Trung Tá giúp cho qua cơn khó khăn với các Thầy ở ngoài đó. Ở ngoài đó mấy Thầy cứ tuyệt thực rồi biểu tình này khác. Được biết Trung Tá có quen biết, tôi nhờ Trung Tá liên lạc với mấy Thầy, không biết Trung Tá có đủ khả năng dàn xếp cho êm được không?
BS Quan chưa kịp trả lời thì Tổng Thống Diệm lại nói tiếp:
– Nhờ Trung Tá giúp và giải thích cho họ hiểu và hỏi họ muốn gì?
BS Trương Khuê Quan trả lời:
– Thưa Tổng Thống, tôi có quen biết với mấy Thầy, có làm việc chung với mấy Thầy từ năm 1946 cho đến khi nhập ngũ (1956) chuyên lo Phật sự và hoằng pháp. Từ khi nhập ngũ đến nay, tôi không có dịp để hoạt động với mấy Thầy ấy nữa. Việc giải thích và dàn xếp không biết mấy Thầy có nghe không, nhưng Tổng Thống đã ra lệnh thì tôi xin sẵn sàng thi hành.
BS Trương Khuê Quan ngừng lời, Tổng Thống Diệm bất thần hỏi:
– Người ta nói ông Trí Quang thân Cộng. Ông ta vẫn thường hoạt động cho Cộng Sản có đúng vậy không?
Bác Sĩ Quan đáp:
– Thưa Tổng Thống tôi không dám trả lời là có hay không.
Sau đó Bác Sĩ Quan có trình bày đại ý rằng, Thượng Tọa Trí Quang có là Cộng Sản hay không vấn đề này thật quan trọng. Điều cần nhất phải tìm hiểu sự tiến triển của Hội Phật Giáo như thế nào và nhất là kiểm điểm những hình thức và môi trường nào đã tạo ra Thượng Tọa Trí Quang ngày nay. Tóm lại BS Trương Khuê Quan hoàn toàn dè dặt và không trả lời vào câu hỏi của Tổng Thống Diệm.
Tổng Thống Diệm yên lặng suy nghĩ lao lung. Sau đó, Tổng Thống Diệm hỏi ông đại cương về môi trường đã đào tạo nên một Thích Trí Quang. Bác Sĩ Quan đáp:
– Thầy Trí Quang cũng như một số Thầy khác được đào tạo trong một lớp Phật học tại chùa Bảo Quốc mà Bác Sĩ Lê Đình Thám, BS Thám lúc ấy (1940) là Chủ Tịch Hội Nghiên Cứu Phật Học Trung Việt (Société des Etudes et Exercices Budhistes d’Annam)
Tổng Thống Diệm đáp ngay:
– Tôi biết, Lê Đình Thám hiện thời đi đàng kia.
– Thưa Tổng Thống có lẽ như vậy e không được rõ. Xin Tổng Thống cho tìm hiểu thêm một chút nữa may ra có thể giải quyết được.
Ông Nhu ngồi lim dim, từ nãy giờ ông vẫn im lặng không nói lấy một câu. Khi nghe nhắc đến Lê Đình Thám, ông Nhu nhăn trán rồi bỗng dưng đứng lên vẻ giận dỗi nói trống không:
– Phải chứ! Điều đình với họ phải chứ nếu không như vậy thì người ta lại đổ thừa cho mình là đàn áp.
Đây chỉ là lời nói giận lẫy của ông Nhu, mọi người đều cảm thấy không khí nặng nề khó thở. Ông Nhu đứng lên đi thẳng một mạch, không nói thêm một câu. Trong phòng Tổng Thống Diệm chỉ còn lại Nguyễn Đình Thuần, Bùi Văn Lương, Bác Sĩ Trương Khuê Quan, Bác Sĩ Tuyến.
Tổng Thống Diệm vẫn bình tĩnh và như không để ý đến thái độ giận lẫy của ông Nhu. Tổng Thống Diệm bảo Bác Sĩ Quan:
– Tôi nhờ Trung Tá ra ngoài đó coi như thế nào. Trung Tá nói với các Thầy ấy ngưng tuyệt thực đi, dân chúng đừng có làm gì phiền nhiễu quá đáng. Cứ từ từ rồi mọi việc sẽ được thu xếp ổn thỏa.
Cuộc yết kiến Tổng Thống Diệm kéo dài trên 40 phút. Sau buổi chiều đó, Bộ Quốc phòng lo giấy tờ Bác Sĩ Trương Khuê Quan ra Huế. Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần trao cho Bác Sĩ Trương Khuê Quan hai lá thư viết tay phong kín – Lá thơ gửi riêng cho Đại Biểu Chánh Phủ Nguyễn Xuân Khương. Một lá yêu cầu trao tận tay cho Đại Tá Đỗ Cao Trí Tư Lệnh Sư Đoàn I – Nội dung lá thư đó vừa giới thiệu Bác Sĩ Trương Khuê Quan vừa chỉ thị một số điều căn bản về việc giải quyết vụ Phật giáo tại Huế và Quảng Trị.
Ông Ngô Đình Nhu chống lại phương thức giải quyết của TT Diệm. Ông vẫn có định kiến: “Mấy Thầy đó tu hành khi được cái này sẽ đòi cái khác… có chiến lược trường kỳ mà… Ai còn lạ gì Lê Đình Thám… Hắn là Marxiste mà… Phật giáo nhà nước Cộng Sản mà”, tuy vậy ông Nhu không thể chinh phục được TT Diệm. TT Diệm cũng có biết ít nhiều về Giáo sư Lê Đình Thám. Nhưng có lẽ không được hiểu rõ lắm.
Ở đây tưởng cũng nên nhắc lại sơ qua “khung cảnh” Phật giáo trước năm 1945, với sự ra đời của tổ chức hội nghiên cứu Phật Học Trung Việt mà ông Lê Đình Thám là một sáng lập viên, một kiện tướng của hội. Ông Thám muốn hiện đại hóa Phật Giáo, muốn nâng cao trình độ học vấn của dân chúng cho thích hợp với trào lưu tiến hóa của thế giới và điểm quan trọng nữa là tập hợp Phật tử dưới một tổ chức để chuyên tâm và thống nhất trong việc nghiên cứu kinh sách và hoằng dương Phật pháp. Trước năm 1937 khi hội Seeraba được thành lập thì Phật giáo Việt Nam tuy là một thực thể trong quần chúng nhưng không tổ chức hay đúng hơn phi tổ chức, “Sư đâu thì chùa đó và có chùa là có Phật có tăng ni Phật tử”
Năm 1945, Trần Văn Giàu làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ đã thanh toán ngay các phần tử quốc gia và một lãnh tụ quan trọng như Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, nhà cách mạng Phan Văn Hùm… Trong khi Lê Đình Thám lại được Trần Văn Giầu o bế. Sau ông Thám gia nhập mặt trận Liên Việt và trở thành một trong mấy đại diện Phật giáo. Năm 1954, Lê Đình Thám tập kết ra Hà Nội rồi tham gia mặt trận Tổ Quốc. BS Thám nổi tiếng là con người liêm khiết và say mê Phật pháp. Ông là một Phật tử thuần thành hiếm có.
Hòa Thượng Tố Liên cũng như Thượng Tọa Trí Độ cũng như BS Thám đều được nhà nước Cộng Sản Bắc Việt o bế. Riêng Thượng Tọa Trí Độ được trưng dụng như một cán bộ cao cấp như của nhà nước, tuy Thượng Tọa không phải là người Cộng Sản nhưng mà nhà nước Cộng Sản Bắc Việt đã biến Thượng Tọa thành một thứ đại diện Phật giáo Bắc Việt qua tổ chức Tổng Hội Phật Giáo (một tổ chức làm vì để trình diễn khuôn mặt tôn giáo tại miền Bắc cũng tương tự như tổ chức Công Giáo ly khai tại Trung Hoa Lục và Bắc Việt). Trong các hội nghị Phật Giáo thế giới, Thượng tọa Trí Độ cũng có mặt để đại diện Phật giáo miền Bắc. Trường hợp Thượng Tọa Trí Độ cũng tương tự như Nhà Sư Shirob Gyaldso của Trung Cộng chỉ là đại diện Phật giáo qua tổ chức Phật Giáo nhà nước chứ không có một thực quyền tôn giáo nào cả.
Căn cứ theo tài liệu của Phòng Nhì Pháp thì các Thượng Tọa Trí Quang, Thiện Minh v.v… có liên hệ mật thiết với Thượng Tọa Trí Độ cũng như BS Lê Đình Thám. Năm 1952, cơ quan an ninh đã không cho phép Thượng Tọa Trí Quang qua Nam Vang tham dự Đại Hội Phật Giáo Thế Giới cũng có mặt của Nhà Sư Shirob Gyaldso (theo tài liệu trong cuốn The long charade của Chiritfield thì Thượng Tọa Trí Quang có một huyền thoại khả nghi về phía bên kia). Nhưng tài liệu của Phòng Nhì Pháp cũng như nhà báo Chiritfield không tin được vì chỉ có một chiều méo mó và nặng tính chất xuyên tạc.
Khoảng năm 1956, trong một cuộc hành quân tại mật khu Việt Cộng tại Thừa Thiên (phần đầu đã viết) quân đội có bắt được một tài liệu thuộc loại “tài liệu chiến lược” (chỉ cán bộ Cộng Sản cao cấp mới được giữ tài liệu này). Tài liệu liên quan đến công tác tôn giáo vận tại miền Nam và những dự định tổ chức các hội đoàn Phật giáo theo công thức và chủ đích của Đảng Cộng Sản Bắc Việt. Tài liệu này được trao cho ông Cẩn và nó lại dính dáng tới Thượng Tọa Trí Quang cũng như Thượng Tọa Thiện Minh sau đó ông Cẩn có mời quý Thầy đến tư thất để tìm hiểu và thông cảm. Ông Cẩn giữ tài liệu này như một bửu bối. Trường hợp ông Cẩn người ta nói rằng “chơi dao có ngày đứt tay” thì quả có đúng như vậy.
Thượng Tọa Trí Quang được Phật giáo miền Trung nhất là Phật tử giới trẻ tôn sùng như thần tượng. Trước vụ Phật giáo 1963 không có một dấu hiệu nào khả nghi về hoạt động chính trị của Thượng Tọa Trí Quang. Riêng Thượng Tọa Thiện Minh lại có những giao hảo rất tốt đẹp với phía ông Cẩn.
Bỗng dưng biến cố bùng nổ và mỗi ngày càng lớn dần càng lan rộng tại Huế. Giới chức an ninh lại có báo cáo gửi về Sài Gòn cho biết Lãnh Sự và Phó Lãnh Sự Mỹ tại Huế đã liên lạc mật thiết với các Thầy tại chùa Từ Đàm. Sở dĩ biết được như thế vì giới an ninh ở đây đã móc nối với một Nhà Sư trẻ ở An Cựu đệ tử của Thầy Thiện Minh về sống rất gần các Thầy… cho nên nhiều kế hoạch của Từ Đàm đã bị phát giác trước khi thực hiện.
Chính quyền Trung Ương mắc một lỗi lầm lớn là chỉ nhìn tình hình qua báo cáo của địa phương mà báo cáo của giới chức an ninh thời nào cũng vậy bị méo mó nghề nghiệp và bị ám ảnh nặng nề bởi cái bóng ma Cộng Sản. Có lẽ ông Ngô Đình Nhu có định kiến về mấy Thầy Trí Quang và Thiện Minh qua những báo cáo địa phương chăng?
Dù ông Nhu không tán trợ việc dàn xếp với mấy Thượng Tọa chùa Từ Đàm nhưng ông cũng không ngăn cản (ông Nhu chỉ quyết liệt vào trung tuần tháng 7).
Ngày 6-6-1963 Bác Sĩ Trương Khuê Quan ra Huế đi chuyến máy bay đầu tiên. Không khí Huế lúc ấy nặng nề lắm. Chùa Từ Đàm bị phong tỏa, thành phố mang vẻ ốm đau. Ông Nguyễn Xuân Khương đã chính thức nhận Đại Biểu Chánh Phủ và ăn ở ngay trong căn phòng thuộc lầu 2 của Tòa Đại Biểu, cho đến ngày Bác Sĩ Trương Khuê Quan ra Huế thì ông Nguyễn Xuân Khương có vẻ lạc quan cho rằng chính quyền sẽ thắng thế. Nhất là nhờ biện pháp cúp điện cúp nước và phong tỏa. Chùa Từ Đàm bắt đầu mỏi mệt. Nhưng ông Khương lại không hiểu qui luật tranh đấu và phương thức giải quyết đó phù hợp với những đòi hỏi xuất phát từ qui luật này. Giả sử như cúp điện nước và phong tỏa chùa có thể giúp cho chính quyền thắng thế nhưng chỉ là cái thằng thế nhất thời và chỉ tạo thêm cho phía tranh đấu có cớ để hào quang hóa đối tượng tranh đấu.
Từ đầu tháng 6, Phật tử Saigon càng thêm nôn nao bất mãn về việc chính quyền cúp điện nước và phong tỏa chùa Từ Đàm. Từ đó, dư luận lại càng thêm sôi nổi và càng được bi đát hóa, báo chí Mỹ – Pháp lại càng có dịp khai thác thổi phồng. Nhưng tình hình tại chỗ thì lại không bi đát như vậy.
Các Thượng Tọa chùa Từ Đàm bắt đầu muốn nhượng bộ nhưng dù sao vẫn còn tự ái và không thể làm mất hào quang cho cuộc tranh đấu được. Trong cái thế kẹt đó thì sự thành lập Uỷ Ban Liên Bộ để cùng với Uỷ Ban Liên Phái giải quyết song phương được coi như một lối thoát tốt đẹp mà không còn lối thoát nào khác hơn ngoài việc xử dụng biện pháp mạnh.
Bác Sĩ Trương Khuê Quan ra Huế thi hành sứ mạng móc nối cho đường lối giải quyết này. Bác Sĩ Trương Khuê Quan khi đến Huế thì vội vã gặp ngay ông Nguyễn Xuân Khương. Ông Khương còn đang trong phòng riêng với bộ quần áo ngủ tiếp “sứ giả” Saigon. Theo Lương Khải Minh thuật lại thì khi Bác Sĩ Quan trao thư của Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần cho ông Khương, ông Khương vừa xem xong đổi hẳn sắc mặt, thái độ thật tức giận, ông đập mạnh lá thư xuống bàn và nói với sự đau khổ của người thất bại: “thế này thì chính phủ thua họ rồi còn gì”. Ông Khương nhăn nhó rồi nói với Bác Sĩ Trương Khuê Quan: “Ở đây đã giải quyết gần xong họ đã xin chịu thua rồi. Họ đã chịu điều kiện tổ chức một buổi lễ rồi mời Tổng Thống ra để họ tạ tội rồi. Bây giờ như thế này thì chính phủ thua rồi… chúng tôi còn làm gì được nữa “.
Bác Sĩ Trương Khuê Quan chỉ có nhiệm vụ thi hành chỉ thị của Tổng Thống Diệm. Ông không góp thêm một ý kiến nào. Khi Bác Sĩ Trương Khuê Quan đến gặp Đại Tá Đỗ Cao Trí trao thư của ông Thuần, Đại Tá Đỗ Cao Trí coi xong cũng lộ vẻ giận dỗi hoàn toàn không đồng ý. Đai Tá Trí than trời như bọng: “Thế này thì làm sao mà dẹp cho êm được”. Ông Trí tâm sự với Bác Sĩ Trần Kim Tuyến: “Anh nghĩ coi… khó lắm anh ơi. Mấy cái ông Thầy bên đó ngang ngược còn hơn…anh ơi…” Ông Trí lại than vắn thở dài: “Nhưng thôi mình là nhà binh thì thượng cấp chỉ đâu làm đó biết sao bây giờ”. Đại Tá Đỗ Cao Trí vừa hứa với Bác Sĩ Trương Khuê Quan: “trong khả năng của tôi, tôi xin giúp cho anh mọi phương tiện anh cần.” Vẫn theo Lương Khải Minh sau đó là Đại Tá Đỗ Cao Trí tự lái xe đưa BS Quan đến chùa Từ Đàm và tự tay ông nhấc hàng rào kẽm gai để BS Quan vượt “bức tường” phong tỏa.
Bên trong các thanh nữ Phật Tử đang lo phận sự bố phòng canh gác. Không khí rất yên tĩnh. Các tu sĩ vẫn sinh hoạt bình thường.
Khi vào nhà Trai thì Thượng Tọa Trí Quang đang ngồi đánh cờ. Vừa trông thấy BS Quan Thượng Tọa Trí Quang tươi cười: “à chào Sứ Giả Hòa Bình từ Saigon ra”. Sau khi đôi bên thi lễ vấn an, BS Quan đi thẳng vào câu chuyện. Ông trình bày thiện chí giải quyết của Tổng Thống Diệm với Thượng Tọa Trí Quang và mấy Thượng Tọa chủ chốt. Không khí thật vui vẻ hòa hoãn. Thượng Tọa Trí Quang yêu cầu BS Quan can thiệp để nhà cầm quyền ngưng cúp điện nước nhưng lúc đó thì ông Nguyễn Xuân Khương đã ra lệnh giải tỏa vấn đề điện nước bay giờ chỉ còn hàng rào dây kẽm gai phong tỏa.
Buổi tối hôm ấy, Bác Sĩ Trương Khuê Quan lưu tại chùa Từ Đàm sau khi từ Quảng Trị trở về. Đây là một sứ giả duy nhất của Saigon có dịp gần mấy Thượng Tọa trong một thời gian 2 ngày để tìm sự thông cảm hai phía. BS Quan cho Thượng Tọa Trí Quang biết rõ ý của TT Diệm là muốn các sư sãi ngưng ngay tuyệt thực trở về nếp sống bình thường sau đó Phật giáo sẽ cùng chính quyền giải quyết. Thượng Tọa Trí Quang yên lặng một cách khó hiểu. Tuy nhiên ông cũng viết một lá thơ trao cho BS Quan đưa ra Quảng Trị chỉ thị cho chùa Tỉnh Hội ở đây ngưng tuyệt thực.
Từ Huế ra Quảng Trị, Đại Tá Đỗ Cao Trí phải cho xe gắn đại liên hộ tống BS Quan mặc dù đường Huế Quảng Trị lúc ấy vẫn còn an ninh, xe cộ có thể đi lại suốt ngày đêm nhưng chuyến hành trình của BS Quan có vẻ gian nan và ông cũng linh cảm thấy sự ngột ngạt khó chịu, khi đến Quảng Trị không khí còn ngột ngạt hơn.
Tại Quảng Trị, tình hình trong mấy ngày 4, 5, 6 càng trở nên sôi bỏng. Chùa Tỉnh Hội cũng như tại Từ Đàm đều bị phong tỏa. Các tăng ni vẫn tiếp tục tuyệt thực. Không khí hết sức giao động.
Nhưng khi BS Quan trao thư tay của Thượng Tọa Trí Quang thì cuộc tuyệt thực được chấm dứt ngay. Sứ giả Saigon đã làm xong nhiệm vụ. Nhưng tình hình có thay đổi không hay chỉ tạm thời an bình để sửa soạn cho một kế hoạch mới?
Giới chức ở Huế lúc bấy giờ không tin rằng phía các Thượng Tọa có đủ lực lượng để làm lớn chuyện và cũng tin rằng có thể thu xếp xong bằng biện pháp mạnh. Tất cả đều chú ý đặc biệt đến Thượng Tọa Trí Quang. Vì cho rằng vị Thượng Tọa này mới là người chủ động, linh hồn của cuộc tranh đấu. Nhưng sự thực Thượng Tọa Thiện Minh mới là người chủ chốt hành động. Thượng Tọa Trí Quang chỉ là khuôn mặt có tính cách tiêu biểu lãnh đạo Phật Tử về mặt nổi – Mặt chìm với phương tiện và cán bộ hành động đều do Thượng Tọa Thiện Minh với tất cả phương thức tranh đấu của một người thâm sâu, bí hiểm.
Khi được Tổng Thống Diệm chấp thuận hòa giải trực tiếp với các Thượng Tọa Từ Đàm, phía Thượng Tọa Thiện Minh đã thắng được một hiệp đầu và gỡ được lối thoát cho các nhà lãnh đạo Phật Giáo tại Huế đang bị bế tắc.
Khi Bác Sĩ Trương Khuê Quan từ Quảng Trị trở lại Huế, ông ngủ lại chùa Từ Đàm một đêm. Trước đó, Đại Biểu Nguyễn Xuân Khương có đưa ông lại tư thất Đức Cha Ngô Đình Thục. Ông Quan ngồi đợi ngoài phòng khách.
Đại Biểu Khương vào trình bày với Đức Cha Thục lâu cả 2 giờ đồng hồ về những chỉ thị hòa giải của Saigon. Nhưng ông Quan vẫn không được Đức Cha Thục tiếp kiến và cũng không cho biết ý kiến của Đức Cha Thục như thế nào. Sau đó BS Quan cùng Đại Biểu Khương đến tư dinh ông Cẩn và ở đây ông Quan cũng phải chờ đợi lâu cả giờ đồng hồ vẫn không được ông Cẩn tiếp.
Tuy vậy, cho đến lúc ấy, ông Cẩn vẫn một lòng bênh vực giải pháp điều đình trực tiếp với Huế.
Điều mà trước đây ông đã thỉnh thị Saigon và chính ông đã cho chuyển lá thư tay của Thượng Tọa Trí Quang lên TT Diệm, lá thư ấy được viết ngay tại nhà ông Cẩn với lời lẽ hết sức khiêm nhường và chỉ yêu cầu giải quyết 2 nguyện vọng mà thôi. Đến nay, TT Diệm chấp thuận điều đình thẳng với Thượng Tọa Từ Đàm tức ông Cẩn đã toại nguyện vì từ 7, 8 năm qua, ông Cẩn tự hào về mối liên hệ chặt chẽ giữa ông và các Thượng Tọa Trí Quang, Thiện Minh cho nên biến cố xảy ra ngoài ý muốn của ông, ông cũng một lòng bênh vực các Thượng Tọa cũng là điều dễ hiểu.
Bác Sĩ Quan đã thành công một phần nhiệm vụ nhưng Saigon lại đánh điện gọi ông Quan về gấp.
Trong thời gian BS Trương Khuê Quan ở Huế có nhiều truyền đơn được tung ra “tố cáo một Trung Tá từ Saigon đã âm mưu với các Thượng Tọa chùa Từ Đàm”
Không khí thật ngột ngạt, ông Quan nhờ chiếc xe Camionette của chi cuộc quân tiếp vụ để ra phi trường Phú Bài cùng với Thượng Tọa Thiện Minh về Saigon. Viên Thượng Sĩ chỉ cho ông mượn xe mà không dám tự lái vì trên đó còn Thượng Tọa Thiện Minh – ông cho mượn xe rồi chuồn lẹ. Lúc ấy, kể cả xe đò, xe ca của Air Vietnam đều không chịu chở các Thượng Tọa nhất là Thượng Tọa Thiện Minh. Tình cờ BS Quan gặp ông Cao Xuân Vỹ và Trung Tá Huỳnh (Phó Giám Đốc Nha Công An Quân Đội ) ra công cán tại Huế và cùng về Saigon một chuyến với ông Quan. Hai ông đi nhờ xe quân tiếp vụ ra Phú Bài. Nhưng mặc dù cùng phục vụ một chế độ nhưng mỗi người lại thi hành cho một đường lối khác nhau.
Trên chuyến xe đó có cả Thượng Tọa Thiện Minh. Nhịp cầu Phật giáo Huế và Saigon bắt đầu bắt nhịp.
Khi trở về, BS Quan mới giật mình về chuyến đi quá nguy hiểm của ông mà chính Bộ Quốc Phòng cũng không tiên liệu được. Không hiểu những tính toán như thế nào của giới chức tại Huế nhưng đã hoàn toàn bất lợi cho BS Quan.
Do đó, Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần phải đánh điện khẩn cấp gọi BS Quan về ngay vì e ngại “có thể nguy đến tánh mạng”.
Riêng Thượng Tọa Thiện Minh, khi vào đến Saigon lần này, ông lại tiếp xúc một lần nữa với Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần. BS Tuyến cũng đến thăm Thượng Tọa Minh tại một nhà người quen. Qua cuộc mạn đàm với BS Tuyến, Thượng Tọa Thiện Minh tỏ ra rất cởi mở và ôn hòa, có thể nói Thượng Tọa Thiện Minh đã mềm dẻo ngoài sự mong muốn của chính quyền.
Ngày 5-6-1963, Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo nhóm họp lần thứ nhất tại Hội Trường Diên Hồng. Về phía chính phủ có PTT Thơ, Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần và Bùi Văn Lương. Về phía Phật giáo có các Thượng Tọa Tâm Châu, Thiện Minh, Thiện Hoa, Huyền Quang, Đức nghiệp. Đại Đức Đức Nghiệp là phát ngôn viên của phái đoàn Phật giáo.
Phiên họp đầu tiên mới chỉ có tính cách giới thiệu và nghi lễ cùng thảo luận một số vấn đề liên quan đến thủ tục và phương thức thảo luận.
Cho đến ngày 5-6 hiệu lực của Ủy Ban Liên Phái chưa có gì đáng kể nếu không muốn nói là quá lỏng lẻo. Ngay trong Ủy Ban Liên Phái cũng có ba khuynh hướng. Khuynh hướng Phật Giáo trong Nam vẫn còn dè dặt, e ngại vì sự hiện diện của Thượng Tọa Thiện Minh, mà khuynh hướng này vẫn có định kiến “người của ông Cẩn”.
Khi Thượng Tọa Thiện Minh vào Nam lãnh một vai trò quan trọng như vậy nhưng vẫn chưa có hậu thuẫn quần chúng, chưa có cán bộ, phần lớn cán bộ trong giai đoạn này đều thuộc ảnh hưởng của các Thượng Tọa Tâm Châu, Tâm Giác, Đức Nghiệp. Mà những cán bộ này (nói cán bộ không đúng danh nghĩa) hầu hết thuộc thành phần đảng phái Quốc Gia có kinh nghiệm hành động và vốn bất mãn với chính quyền. Tuy không phải là Phật tử thuần thành nhưng cũng vẫn có danh nghĩa Phật tử và nhân cơ hội ngàn vàng một thuở này thì họ tạm thời đứng cùng với Phật Giáo để tranh đấu.
Đáng kể nhất là một số cán bộ VNQD Đảng (thuộc thế hệ trẻ) miền Bắc di cư cũng như hai miền Nam – Ngãi , giai đoạn đầu đã góp công không nhỏ làm hậu thuẫn cho các Thượng Tọa trong Ủy Ban Liên Phái. Sau nữa là một số nhỏ trong hàng ngũ đảng Duy Tân.
Lớp cán bộ trẻ này, vì nhiệt huyết vì lòng trung kiên với Đảng và đồng thời cũng bị thúc đẩy bởi khát vọng cách mạng (họ có biết đâu chỉ là ảo tưởng)… cho nên nhân cơ hội “biến cố Phật Giáo” thì vùng dậy.
Hầu hết lớp trẻ đã tin vào lãnh tụ, tan tác mỗi người một nơi không tổ chức nhưng vẫn còn truyền thống kết hợp. Mà Phật Giáo với hình ảnh một Tiêu Sơn tráng sĩ cũng là động cơ làm sống động truyền thống của Đảng… Với những lãnh tụ già nua hủ lậu đã không kết hợp được giới trẻ không đủ khả năng vận động giới trẻ cho một công trình tranh đấu lớn lao. Bỗng nhiên một số Thượng Tọa đứng lên lãnh đạo tranh đấu lần thứ nhất trong lịch sử Việt Nam sau nhà Lý. Chính các Thượng Tọa này đã trở thành thần tượng thu hút hầu hết đảng viên trẻ của Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng như Đại Việt (nhóm Tự Quyết và Ba Lòng) và một số nhỏ Đảng viên Duy Dân.
Giai đoạn đầu từ tháng 6, Cộng Sản chưa kịp trở tay chưa xâm nhập vào được hàng ngũ tranh đấu (hoặc nếu có cũng chưa dám ra mặt) nhưng chính thành phần đảng phái quốc gia mới là yếu tố chủ động (tất nhiên là thành phần trẻ). Ngay từ đầu tháng 6, dù không có lệnh ai (bởi không còn lãnh tụ hay đã phủ nhận lãnh tụ) các đảng viên Việt Quốc cũng như Đại Việt Duy Dân (thuộc hàng ngũ tiến bộ và trong sạch) đều tự động đứng lên hoạt động theo từng nhóm và tự động đứng vào phong trào đấu tranh của Phật Giáo. Các nhóm đảng kể như nhóm Yên Bái (Đại Học Văn Khoa, Sư Phạm và Luật) gồm những cán bộ cốt cán như nữ sinh viên Uyển, sinh viên Đỗ Tấn Phú… cùng những Đỗ Đình Duyệt (Công giáo) Đỗ Đức Thịnh (Công Giáo) cùng với nhóm Nguyễn Thường Bá, Uyên Thao (một cán bộ trẻ cốt cán của một hệ phái VNQDĐ và đã góp không nhỏ trong cuộc tranh đấu của Phật giáo 1963) và Thế Uyên. Các đảng viên trẻ Duy Dân thì quy tụ quanh qua Thượng Tọa Tâm Châu như nhóm Vỵ Ý. Miền Trung nhóm trẻ Việt Quốc cũng vùng dậy và đóng vai trò quan hệ trong giới sinh viên Huế.
Giới Đảng Viên kỳ cựu cũng tích cực dấn mình vào cuộc tranh đấu như nhóm Việt Quốc của cụ Bạch Vân (Công Giáo), nhóm ông Đĩnh (tự Đính cụt- Công Giáo), nhóm Việt Quốc miền Nam , nhóm Đại Việt Nguyễn Tôn Hoàn, nhóm Việt Quốc Như Phong, Nguyễn Hoạt (tờ Tự Do).
Có thể nói giai đoạn đầu tại Saigon con số 5, 7 tăng sĩ nếu không có sự tham gia tích cực của các đảng viên trẻ thuộc đảng phái quốc gia thì Phật Giáo cũng chưa thể tạo được một thanh thế to lớn. Rồi những huyền thoại lan truyền mau chóng trong giới trẻ này để tạo dựng khí thế như là “Thượng Tọa Tâm Châu, thuộc đảng Duy Tân, Thượng Tọa Minh Hòa, Thượng Tọa Quảng Đức cũng như một cảm tình viên Việt Quốc” cứ như thế… như thế… giới trẻ lao vào cuộc tranh đấu không cần biết cuộc tranh đấu đi đến đâu.
Thành phần đảng phái Quốc Gia thuộc giới trẻ kể trên thành thực lực đầu tiên của phong trào tranh đấu Phật giáo tại Saigon. Nhưng họ chỉ là cán bộ bậc trung còn ít tuổi không có lãnh đạo cho nên khi cùng đứng trong phong trào tranh đấu Phật Giáo thì lẽ tự nhiên họ tự đặt mình trong sự lãnh đạo của các Thượng Tọa và rồi đồng hóa bản chất “đảng Quốc Gia” của mình với bản chất của phong trào tranh đấu Phật Giáo lúc ấy. Ngoại trừ mấy nhóm đảng viên kỳ cựu như đã viết ở trên, hoạt động lẻ tẻ ủng hộ cuộc đấu tranh bằng tinh thần và hỗ trợ theo cách riêng. Hầu hết thành phần trẻ tạm thời tự động thoát ly Đảng để tự đặt mình trong cuộc tranh đấu với hy vọng cuộc tranh đấu thành công thì họ sẽ là những thành phần cốt cán chủ động phục hồi đảng.
Vốn lãng mạn từ bản chất qua tinh thần cách mạng Tự Lực, lớp trẻ lại không được đào tạo theo một kỹ thuật đấu tranh, cũng không biết về qui luật đấu tranh cho nên vô tình họ trở thành con tốt trong một ván cờ, mặc dầu khi dấn thân vào cuộc họ dâng cả trái tim, cả bầu nhiệt huyết, cả cuộc đời. Những Uyên Thao, Vỵ Ý là một thí dụ. Đầu tháng 7- 1963 khi Cộng Sản đã “điều nghiên” xong, đã dự trù mọi kế hoạch hành động thích nghi và nhảy vào cuộc, thâm nhập ồ ạt vào ngay trong lòng cuộc tranh đấu thì thế lực Quốc Gia dần dần bị giảm sút hoặc lại bị chính Cộng Sản giật giây và núp bóng. Nhưng có điều quan trọng khi Ủy Ban Liên Phái và Ủy Ban Liên Bộ nhóm họp tại Hội Trường Diên Hồng thái độ người Mỹ như thế nào?
Qua Văn Thư của chính phủ Mỹ do Phó Đại Sứ Truheart trao cho Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần để trình lên TT Diệm thì chính phủ Mỹ nóng lòng thúc đẩy TT Diệm giải quyết vụ Phật Giáo, vì cho rằng báo chí và dư luận Mỹ đang tạo bất lợi cho chính phủ Việt Nam nói riêng, và TT Kennedy đang gặp khó khăn tại quốc nội do cuộc khủng hoảng tôn giáo tại Việt Nam. Từ Ngoại Trưởng Mỹ đến TT Kennedy đều cùng một lập trường thúc đẩy chính quyền Việt Nam giải quyết mau lẹ vụ Phật Giáo. Đại Sứ Nolting vẫn là người bạn tri giao của ông Nhu và rất cảm phục TT Diệm. Quan điểm của ông lúc ấy là tế nhị và dè dặt nhưng tích cực ủng hộ chế độ Ngô Đình Diệm.
Nhưng ngay trong tòa Đại Sứ Mỹ lại có một khuynh hướng chống đối tích cực chế độ Ngô Đình Diệm. Khuynh hướng này được ngấm ngầm hỗ trợ bởi ông Phó Đại Sứ Truheart. Phía CIA (mặt nổi) đại diện là Đại Tá Richardson lại là người ủng hộ chế độ Ngô Đình Diệm nhưng phụ tá của ông tức Smith lại có nhiều liên lạc ngầm với một số chính khách thuộc nhóm Phan Huy Quát lại muốn nhân cuộc khủng hoảng Phật Giáo đòi áp lực đòi TT Diệm cải tổ nội các và thay đổi một số cơ chế trong guồng máy công quyền.
Phía CIA chìm (đây mới là yếu tố quan hệ) đã tìm mọi cách móc nối với một vài nhân vật thuộc phe tranh đấu Phật Giáo (Đại Đức Đại Nghiệp với tư cách phát ngôn viên, giao tiếp với ký giả Mỹ và CIA đã trá hình móc nối qua ngã này). Do đó, ngay khi phía Phật Giáo và chính quyền ngồi vào bàn hội nghị thì đã có những bàn tay thứ ba quấy phá. Vì nếu chính quyền và Phật Giáo đi đến một ổn thỏa tốt đẹp thì họ không lợi dụng được gì.
Từ cuối năm 1962 tại Mỹ đã có một khuynh hướng hỗ trợ nhóm Phan Huy Quát và đòi chánh quyền Ngô Đình Diệm phải cải tổ, đặt thêm chức Thủ Tướng với quyền hạn rộng rãi. Phan Huy Quát và xa hơn là Vũ Quốc Thúc có nhiều triển vọng được giới chức Mỹ áp lực với TT Diệm đặt vào chức vụ Thủ Tướng này.
Nhưng với một người ngang bướng và cương quyết như TT Diệm thì không bao giờ Mỹ có thể thành công trong những toan tính như vậy. Sự hiện diện diện của ông Nhu lại càng tạo thêm khó khăn, vì không thể nào một Ngô Đình Nhu chấp nhận một Thủ Tướng có quyền hành rộng rãi như kiểu Thủ Tướng Phan Huy Quát cho nên từ Harriman đến Hilsman và Truheart đều cho rằng muốn cải tổ nội các và cơ chế dân chủ tại Việt Nam thì phải trục xuất vợ chồng ông Nhu. TT Diệm sẽ không thể làm gì khác hơn là cai trị trên uy quyền tượng trưng. Nhưng toan tính đó không qua khỏi cặp mắt ông Nhu.
Cuộc hòa giải giữa chánh quyền và Phật Giáo qua Ủy Ban Liên Phái và Liên Bộ đang tiến hành tốt đẹp thì bỗng nhiên gặp trở ngại.
ĐỔ THÊM DẦU VÀO LỬA
Vào buổi sáng thứ bảy sau phiên họp ngày 5-6 giới chức Phủ Tổng Thống lại muốn điên đầu về bản thông cáo của Hội Phụ Nữ Liên Đới (tất nhiên do bà Nhu soạn thảo). Trước đó bà Nhu triệu tập hội đồng ban chấp hành Trung Ương để thảo luận và tỏ thái độ về hòa giải trên.
Trong bản thông cáo ấy Bà Nhu gay gắt lên tiếng phản đối với phương thức giải quyết của Tổng Thống và nặng lời công kích một số nhà lãnh đạo Phật Giáo. Bà Nhu lấy lý do rằng Phật Giáo cũng là một hội đoàn, phong trào Liên Đới cũng là một hội đoàn, và như vậy phong trào Liên Đới có quyền lên tiếng không ai có quyền cấm đoán kể cả chánh quyền. Cái lý do của bà Nhu thì rất đúng không ai chối cãi được vì trong một cộng đồng quốc gia các đoàn thể đều được đối xử ngang nhau trước pháp luật và đều được quyền tỏ thái độ bất bình đối với một đoàn thể khác miễn sao không xâm phạm đến an ninh quốc gia. Nhưng sự việc đâu có giản dị như vậy nhất là trong thực tại xã hội miền Nam vốn đầy ngộ nhận ganh ghét và hận thù. Bà Nhu cho rằng lên tiếng công kích Phật Giáo theo tư cách Chủ Tịch Phong Trào Liên Đới tức là không dính dáng gì đến chánh phủ và chánh phủ phải coi đó là điều tối cần phải ủng hộ. Bởi vì khi chính phủ đang có chuyện rắc rối với một hội đoàn khác lên tiếng công kích hội đoàn này và hỗ trợ chính phủ như vậy chính phủ còn có cái may mắn nào hơn.
Nhưng thục tế đâu có giản dị như vậy và nhất là thực tế xã hội Việt Nam thì không thể dùng một thứ “logique” nào phân tách được. Bà Nhu là em dâu một vị Tổng Thống, uy quyền của bà trên thực tế ai cũng thấy và nhất là bản thông cáo của bà lại do một phiên họp tổ chức ngay trong Dinh Gia Long thì bản thông cáo ấy đã mặc nhiên là tiếng nói bán chánh thức của chính quyền dù cho biện minh khéo léo thế nào thì cũng không ai nghe.
Vẫn biết rằng bà Nhu được nghe người ta kể lại đầy đủ về đời sống thâm cung bí sử của Thầy Thiện Minh, bà Nhu có định kiến về mấy Thầy ấy là “sư hổ mang” (ngôn ngữ của bà Nhu thường dùng trong cuộc đàm đạo) nhưng tâm lý quần chúng khó có thể chấp nhận cho một người đàn bà lên tiếng công kích mạt sát các vị lãnh tụ tinh thần dù các vị ấy thế nào chăng nữa… Rồi một điểm sai lầm quan trọng hơn là bà Nhu đã tổng quát hóa Phật Giáo tuy là chiếm đa số trong quần chúng nhưng số Phật Tử thuần thành lại không bao nhiêu.
Bà Nhu thường viết diễn văn thông cáo bằng Pháp văn, có nhẽ bản thông cáo do người dịch thiếu sự am tường và tế nhị của Việt Ngữ nên bản Pháp Văn đã nặng dịch ra Việt Ngữ lại càng nặng hơn.
Bà Nhu quyết định phổ biến bản thông cáo đó trên báo chí.
Cũng vào sáng thứ bảy hôm ấy trong một bài nói về Phật Giáo Việt Nam xướng ngôn viên đã không tiếc lời ca ngợi công đức Tổng Thống đối với sự phát huy Phật Giáo và đưa ra thống kê: số chùa trong toàn quốc có 4776. Khi TT Diệm chấp chánh từ năm 1954 đến 1963 thì Phật Giáo đã xây thêm được 1275 ngôi chùa mới và trùng tu được 1295 ngôi chùa đã hư hại vì thời gian chiến tranh.
Sự thực thì TT Diệm đã giúp rất nhiều tài chánh và phương tiện để xây cất chùa. Đó là điều Tổng Hội Phật Giáo biết rõ. Thế nhưng khi cao trào tranh đấu đang lên thì dân chúng lại không tin những con số thống kê về thành tích của chính phủ đối với Phật Giáo. Con số thống kê mà dân chúng không tin huống chi thông cáo của bà Nhu thì không ai có thể tin rằng đó là thái độ trung trực. Nhất là bản thông cáo ấy lại nói trùm lấp cả một tập thể lớn như Phật giáo. Phương thuật chính trị dùng để phản đối phe “đối lập” không dùng cách này.
Khoảng sáng thứ bảy BS Tuyến vào Dinh và đến phòng ông Đổng Lý Lý Đoàn Thêm ngồi nói chuyện trăng gió nước non thì ông Phan Văn Tạo Tổng Giám Đốc Thông Tin bước vào, ông TGĐ Thông Tin đang muốn “điên đầu” vì bản thông cáo mà bà Nhu làm áp lực phải phổ biến trên báo chí.
Giới cao cấp trong chánh quyền lúc đó đã có hơn hai khuynh hướng một muốn hòa giải cho êm một muốn làm mạnh. TT Diệm đứng về phía hòa giải. Bà Nhu là một trong những người không chấp nhận phương thức hòa giải của Tổng Thống một phần do bà ta thích làm chuyện khác lạ. Hơn nữa bà Nhu cũng như ông Nhu không bị mặc cảm Thiên Chúa Giáo trong khi đó thì TT Diệm bị dày vò bởi mặc cảm này.
Trong thông cáo tỏ thái độ của PTPNLD đến nay đọc lại thì kể ra cũng không có gì gọi là quá nặng nề nếu xét toàn bộ văn bản. Nhưng nếu cắt xén từng câu thì quả là ngột ngạt.
Ông Phan Văn Tạo trao bản thông cáo ấy cho BS Tuyến và ông Đổng Lý Đoàn Thêm coi. BS Tuyến cũng phải giật mình vì nếu phổ biến thông cáo này sẽ hoàn toàn bất lợi trong dư luận và gây nên sự hiểu lầm giữa chánh quyền và Ủy Ban Liên Phái trong khi cuộc hòa giải đang tiến hành tốt đẹp.
Ông Tổng Giám Đốc Thông Tin cho biết bà Nhu có gọi điện thoại thẳng cho ông hỏi tại sao không cho phổ biến thông cáo ấy vào các số báo xuất bản sáng thứ bảy. Ông Tạo phải tìm cách nói khéo để kéo dài thời gian hầu có thể tiếp xúc thẳng với Phủ Tổng Thống. Với nội dung bản thông cáo ấy ông Phan Văn Tạo cũng cảm thấy sẽ gây nên phản ứng bất lợi trong dư luận.
Từ ông Đoàn Thêm đến BS Tuyến đều đồng ý như vậy. Nhưng làm thế nào để ngăn chặn nổi khi bà Nhu muốn. Quyết định ra sao chỉ có TT Diệm mới dứt khoát được.
Thời nào cũng vậy, đảm trách ngành Thông Tin ở một xứ chậm tiến quả thực vạn phần khó khăn nhất là khi gặp những biến cố lớn.
Nhưng đó cũng là cách góp công vào việc làm thế nào để giết một Tổng Thống.
Ông Phan Văn Tạo cùng BS Tuyến đành ngồi tán chuyện đời tại phòng ông Đổng Lý Đoàn Thêm trong lúc chờ đợi ông Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần đang họp ở Hội Trường Diên Hồng.
Khoảng 11 giờ 30, ông Thuần trở về văn phòng. Xem xong bản thông cáo thì ông cũng đồng ý ngay không thể phổ biến ngay được và phải trình lên Tổng Thống Diệm.
Khi lên yết kiến Tổng Thống và trình bày lợi hại, TT Diệm cũng đồng ý với ông Thuần không thể phổ biến thông cáo này được.
Chiều hướng giải quyết tranh chấp nội bộ bao giờ cũng đòi hỏi sự tế nhị khôn khéo và nhất là phải tránh ngộ nhận một khi đã tạo nên ngộ nhận thì khó lòng có thể giải quyết êm xuôi, giải quyết những tranh chấp không thể xử dụng những hình thức thông cáo tuyên ngôn khi mà những hình thức này chỉ tạo thêm sự rắc rối.
Bà Nhu lý luận rằng: Bà không chống lại Phật giáo mà bà chỉ lên tiếng chống lại phần tử lợi dụng Phật Giáo. Nhưng vì không có căn bản và kinh nghiệm chính trị nên bà đã quên yếu tố này: Dù là một thiểu số cá nhân nhưng cá nhân đó khi tạo được danh nghĩa để nhân danh tập thể và mặc nhiên đại diện cho danh dự và chính nghĩa mà họ đang lôi kéo quần chúng ủng hộ. Quần chúng có là cái gì đâu, chỉ là đám đông dễ tin dễ phẫn nộ và quần chúng không biết phê bình.
Nếu quần chúng phê bình thì chỉ phê bình một chiều và do một thiểu số lãnh đạo quần chúng chỉ dẫn sách động. Bản thông cáo của bà Nhu chỉ cần xén một vài câu vài lời cũng đủ vốn liếng để phẫn nộ trong quần chúng (thực tế đã xảy ra như vậy).
Khi giải quyết các biến cố người cầm quyền dù có thiện chí giải quyết thì bao giờ cũng phải chú trọng đến mấy điểm sau đây: 1/ Quyền lợi đòi hỏi của những người đại diện phe tranh đấu. 2/ Khối trầm lặng chưa có thái độ mà bao giờ cũng đông đảo. 3/ phải khám phá và đề phòng kịp thời những phần tử phá hoại hòa giải để kéo dài cuộc tranh đấu cho mục tiêu xa hơn. Tiếc thay, bản thông cáo của bà Nhu trở thành một động cơ xáo trộn cuộc hòa giải và chính nó đã làm cho khối trầm lặng bất mãn… và đó cũng là dịp may cho các phần tử khuấy động (Cộng Sản và ngoại bang) tạo cơ hội kéo dài cuộc tranh đấu. Khối trầm lặng đã bất mãn thì nguy cơ không xa.
Khi được biết ý kiến của TT Diệm và ông Bộ Trưởng Thuần, ông Giám Đốc Thông Tin yên trí có thể dẹp bản thông cáo của bà Nhu. Nhưng bà Nhu đâu có chịu thua một cách dễ dàng như vậy.
Bà Nhu lại gọi điện thoại cho Phan Văn Tạo lần nữa và cất vấn tại sao không cho phổ biến.
Ông Tạo thực tình trình bày sở dĩ không cho phổ biến là ý nghĩ của Tổng Thống. Với giọng nói giận tức bà Nhu bảo ông chờ máy để bà hỏi lại Tổng Thống. Cuộc hội kiến giữa bà Nhu và TT Diệm như thế nào không được rõ nhưng sau đó, bà Nhu cho ông Tạo biết Tổng Thống đã đồng ý. Tuy vậy ông Phan Văn Tạo vẫn chưa tin nên không dám phổ biến ngay. Ông lại thỉnh ý kiến của Bộ Trưởng Thuần.
Ông Thuần đem tự sự trình bày lại TT Diệm thì ông TT tỏ vẻ khó chịu lắm và vẫn giữ ý kiến cũ không cho phổ biến thông cáo này. Thảng hoặc tìm cách phổ biến một cách hạn hẹp. Trùng vào ngày các báo Việt Ngữ nghỉ hàng tuần nên bản thông cáo ấy chỉ phổ biến trên bản tin của Việt Tấn Xã (ấn bản ngoại ngữ) và tờ Journal Extrême Orient Time of Vietnam có đăng lại.
Trước đó, trưa thứ bảy khi ông Thuần vào gặp Tổng Thống ông Thuần tỏ vẻ buồn phiền nói với BS Tuyến và ông Đoàn Thêm: “phổ biến thông cáo này thì bất lợi cho cuộc hòa giải lắm. Bà Nhu bảo Tổng Thống đã đồng ý như vậy không hiểu chính phủ dứt khoát vấn đề này như thế nào?”
Nhưng TT Diệm đã xác định rõ với ông Thuần “Chính sách của chính phủ không có gì thay đổi cả “
Chiều chủ nhật, ông Bộ Trưởng Thuần lại một lần nữa vào Dinh xin gặp Tổng Thống nhưng ông TT mắc bận.
Cuối cùng ông Tạo đành phổ biến và nói với BS Tuyến: “không biết làm sao hơn”. Cũng như trước đó, ông phải trả lời bà Nhu: “Tổng Thống đã đồng ý như vậy thì tôi xin tuân theo ý Tổng Thống”.
Sáng thứ hai thông cáo trên đươc phổ biến thì chiều đã được đăng tải hầu hết các báo Việt Ngữ (ra vào thứ ba)
Kết quả đúng như sự tiên liệu: Bản thông cáo ấy với lời lẽ cứng rắn (nếu không muốn nói là lớn tiếng cao ngạo cùng lập trường chống lại phương thức hòa giải qua Ủy Ban Liên Bộ và Liên Phái đã tạo nên một phản ứng mạnh về phía Phật Giáo. Dư luận chung cũng tỏ ý bất mãn. Nghĩa là bản thông cáo của bà Nhu hoàn toàn bất lợi cho phía chánh quyền và đối với cuộc tranh đấu của Phật Giáo thì bản thông cáo ấy được coi như một sự thóa mạ và chỉ như một thùng dầu lớn đổ vào ngọn lửa đang cháy to. Như trên đã viết, trong cuộc tranh đấu nào cũng vậy vẫn có một khối trầm lặng rất đông đảo… khi thấy một tập thể nào đứng lên chống chính quyền thì cũng lấy làm vui thích và chỉ hưởng ứng trong lòng mà thôi. Họ thực sự trầm lặng như một khách bàng quan. Nhưng sau cái thông cáo của bà Nhu thì bỗng dưng khối quần chúng đông đảo đó nghiêng dần về phía Phật Giáo.
Ủy Ban Liên Phái cho rằng với bản thông cáo ấy chính quyền tỏ ra thiếu thành tín, phản ứng như vậy cũng rất phải. Bởi vì TT Diệm tỏ bày lập trường hòa giải tột bậc, em dâu của Tổng Thống lại lên tiếng công kích như thế thì hẳn nhiên phía Ủy Ban Liên Phái phải nghĩ rằng có sự tráo trở và hòa giải chỉ là cách chính quyền cố kéo dài để tìm cách ứng phó. Do đó mâu thuẫn và hiểu lầm giữa đôi bên mỗi ngày một lớn một sâu cuộc hòa giải có thể tan vỡ.
Phía Ủy Ban Liên Phái thấy rằng đã đến lúc phải ra tay gây một tiếng vang lớn để mở đầu cho một giai đoạn tranh đấu quyết liệt.
Phải công nhận rằng trong cuộc tranh đấu của Phật Giáo 1963, các vị tăng sĩ lãnh đạo đã có nhiều sáng kiến và kỹ thuật tranh đấu mới lạ và hiệu quả
LỬA ĐÃ THỰC SỰ BÙNG LÊN
Hòa Thượng Quảng Đức là nhà tu tự nguyện mở đường cho giai đoạn này. Sáng ngày thứ ba nhằm ngày 11-6 Hòa Thượng Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Lê Văn Duyệt – Phan Đình Phùng. Một tiếng sét lớn. Cơn giông tố thực sự bắt đầu. Tiếng sét làm rung chuyển con người TT Diệm. Cuộc hy sinh tự thiêu để hiến thân cho dân tộc và đạo pháp của Hòa Thượng Quảng Đức có phải là một phản ứng đột ngột trước bản thông cáo của Bà Nhu hay không? Sự hy sinh tự thiêu của Hòa Thượng thực sự được sửa soạn bố trí nhiều ngày.
Sáng ngày 11-6 hồi 9 giờ 30, một lễ cầu siêu được tổ chức tại chùa Phước Hòa với hàng trăm tăng ni tham dự.
Sau đó, các tăng ni tiến về phía ngã tư Lê Văn Duyệt – Phan Đình Phùng và ở đây Hòa Thượng Quảng Đức đã tự thiêu.
Hòa Thượng đi trên một chiếc xe Austin (chiếc xe này của ông Trần Quang Thuận- rể của cụ Tôn Thất Hối)…
Cũng vào giờ này, TT Ngô Đình Diệm đang dự lễ Cầu Hồn cho Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII tại Vương Cung Thánh Đường do Đức Cha Nguyễn Văn Bình chủ đại lễ. Tham dự có đông đủ bá quan văn võ từ Phó TT Thơ đến Chủ Tịch Quốc Hội, Bộ Trưởng. Ngoại giao đoàn và đặc biệt giới ngoại giao Pháp cũng có mặt đông đủ.
Khi vừa tan lễ thì Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Bùi Văn Lương đến bên Tổng Thống Ngô Đình Diệm báo cho ông biết về vụ tự thiêu tại đường Phan Đình Phùng. TT Diệm đứng khựng lại mặt đỏ bừng rồi biến sắc. Ông nói: “có gì mà phải làm như vậy” TT Diệm lật đật về Dinh.
Theo Sĩ Quan Tùy Viên Lê Công Hoàn có thể nói từ sáng hôm ấy TT Diệm bắt đầu cho một chuỗi dài những ngày lầm lì, ít nói có khi ngồi lặng thinh hút thuốc lá lâu cả giờ đồng hồ.
Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần vào yết kiến ông ngay sau đó. TT Diệm lừ đừ mặt cúi gầm.
Ông ngồi lặng thinh cả nửa giờ hết điều thuốc lá này đến điếu khác, ông thả vài đợt khói rồi lại dụi tàn. Một lát sau, TT Diệm bảo ông Thuần: “Việc gì rồi thu xếp có gì mà phải làm như vậy” (ý nói vụ tự thiêu).
Giới thân cận nhất của TT Diệm đều xác nhận: thái độ của TT Diệm lúc ấy thật bàng hoàng. Nét mặt ông đau xót trông thấy. Vụ tự thiêu tạo nên một xúc động quá lớn đối với Tổng Thống. Tại sao vậy? Điều dễ hiểu vì ông là một tín đồ Thiên Chúa Giáo rất là ngoan đạo, là một nhà nho cai trị dân theo quan niệm “thừa thiên hành đạo” cho nên trước biến cố như vậy tự nhiên là ông xúc động. Lương tâm Thiên Chúa Giáo cũng dày vò ông vì Giáo Lý không cho phép tự hủy mình, ông là người gây nên sự tự hủy mình của kẻ khác cũng là một trọng tội. TT Diệm chắc chắn bị xúc động từ một mặc cảm này mặc dù người trong cuộc ai cũng biết ông không có trách nhiệm nhưng ở phương vị lãnh đạo với quan niệm của nho gia thì tự ông lại thấy mình có trách nhiệm.
Vụ tự thiêu của Hòa Thượng Quảng Đức có kết quả đầu tiên và mạnh mẽ là trước hết đã tạo được sự xúc động trong lương tâm của một vị Tổng Thống.
Ngay buổi chiều hôm đó, Tổng Thống cho soạn thảo một bản hiệu triệu quốc dân trong đó TT Diệm nói rõ với quốc dân rằng “sự hòa giải đang tiến hành tốt đẹp thì sớm nay do sự tuyên truyền quá khích che dấu sự thật gây sự hoài nghi về thiện chí của chính phủ khiến một số người bị đầu độc gây một án mạng oan uổng làm tôi rất đau lòng” (nguyên văn).
Phía Phật Giáo bước qua một giai đoạn mới. Trước vụ tự thiêu thì chỉ có một số Phật Tử ruột các Thượng Tọa tích cực tham gia cùng với các thành phần đảng phái quốc gia đối lập, nhưng sau vụ tự thiêu khối quần chúng trầm lặng đông đảo vốn tiêu cực trong bao lâu nay cũng bị xúc động mạnh và bắt đầu nghiêng hẳn về hàng ngũ tranh đấu.
Dầu cứ đổ thêm vào lửa… Phía tranh đấu khai thác triệt để bản thông cáo của bà Nhu… Như trên đã viết đọc đầy đủ văn bản đó thì không có gì nặng nề nhưng quả tình có những từ ngữ rất dễ gây nên sự bất mãn.
Mở đầu bản thông cáo , bà nhu viết “Xét rằng, toàn dân Việt Nam dầu thuộc tôn giáo nào vẫn tôn trọng giáo lý Đạo Phật và luôn luôn tôn kính Đức Phật Tổ một bậc đại thánh hiền vì lẽ đó một số người Việt đã tự nhận mình là Phật tử mặc dù đa số không theo môn phái nào mà chỉ thành tâm và hồn nhiên thi hành đức từ bi”
Sau đó, bà Nhu lại phê bình chính phủ: “Xét rằng chính phủ Việt Nam Cộng Hòa dầu đã thu được nhiều thắng lợi rực rỡ trong cuộc chiến đấu chống phá hoại nhưng đôi khi vẫn còn thiếu phòng xa trong nhiệm vụ giữ gìn trật tự công cộng, bảo vệ luật pháp và như vậy chẳng khác nào mở cửa cho sự lạm dụng trắng trợn”.
Sau đó, bà Nhu nhân danh phụ nữ Việt Nam “thành khẩn yêu cầu những vị tăng ni chân chánh tránh tuyệt thực với dụng ý công kích đả phá vì như vậy tức là phản lại giáo lý của Đức Phật đã dạy nên kiềm chế những đòi hỏi của thể xác như sự đói bằng cách không thỏa mãn để nó đạt đến Niết Bàn” (nguyên văn)
Bà Nhu lại yêu cầu quí vị tăng ni “giữ thái độ bình tĩnh trước hành động của những kẻ núp sau bóng từ bi để gây rối loạn lột mặt nạ những kẻ có hành động phá hoại nhằm mục đích làm giảm uy tín của Phật Giáo và khuynh đảo quốc gia do sự xúi dục của ngoại bang” Rồi bà Nhu lại yêu cầu chính phủ ra lệnh trục xuất những người ngoại quốc gây rối” (nguyên văn).
Dạo năm 1963 người Việt Nam mọi giới chưa có kinh nghiệm về người Mỹ Lúc ấy 16.000 cố vấn Mỹ thì hình bóng người Mỹ còn tương đối dễ thương và chưa tác hại lớn lao đến mọi sinh hoạt quốc gia và xã hội. Người Việt cũng chưa bị ám ảnh về tổ chức CIA và cũng chưa hiểu rõ sức mạnh của tổ chức này (ngoại trừ giới chính khách và quân nhân cao cấp). Thế nên khi bà Nhu nói rằng các nhà Sư bị ngoại bang xúi dục thì đối với quần chúng còn quá mơ hồ và người ta tự hỏi ngoại bang ở đây là ai? Nếu nói là Mỹ thì quần chúng sẽ không tin vì Mỹ đang ủng hộ chính quyền do đó sự tố cáo của bà Nhu dù cho là thực thì dân chúng vẫn cho là điều vu cáo. Dân chúng Việt Nam lại không bao giờ chấp nhận một người đàn bà (dù ở địa vị nào) lớn tiếng vu cáo các nhà tu hành và tổ chức tôn giáo. (bằng chứng bà Nhu đã mất nhiều cảm tình của tín đồ Thiên Chúa giáo khi công kích một số Linh Mục mà bà cho rằng chuyên môn chạy affaire. Cũng như trước đó năm 1954, giáo dân Phát Diệm di cư dù tích cực ủng hộ TT Ngô Dình Diệm nhưng cũng tỏ ra phẫn nộ khi Đài Phát Thanh công kích cha Hoàng Quỳnh và gọi cha Quỳnh là “Đại Úy Hoàng Quỳnh”.
Theo giới thân cận thì trong mấy ngày liền ông Tổng Thống vẫn lầm lì, đôi lúc không có chuyện gì đáng kể ông Tổng Thống vẫn “quắc mắt nhìn lừ đừ” rồi lại cúi xuống dụi tàn thuốc lá liên miên.
Điều làm cho TT Diệm tức giận hơn là vụ chiếc xe Austin của Trần Quang Thuận. Lúc ấy Trần Quang Thuận đang là quân nhân. Sau khi điều tra, cơ quan an ninh báo cáo cho TT Diệm chiếc xe Austin chở Hòa Thượng Quảng Đức và bình xăng đến địa điểm tự thiêu là của Trần Quang Thuận. Ông Tổng Thống nổi giận và cho gọi Tôn Thất Thiết, chánh sở Nội Dịch lên rầy rà (mặc dù ông Thiết không dính dáng vào nội vụ). Và biểu Tôn Thất Thiết về nói với cụ Tôn Thất Hối sao lại để con rể làm như vậy. Ai cũng biết rằng TT Ngô Đình Diệm với cụ Tôn Thất Hối coi nhau như người trong nhà. Cụ Hối vẫn tỏ lòng thầm phục vị cựu Thượng Thư của triều đình Nguyễn. Tuy Trần Quang Thuận bị thượng cấp gọi lên rầy rà nhưng cũng không sao cả (sau này ông ta mới bị bắt). Ông Thuận thanh minh rằng tình cờ cho người ta mượn xe mà thôi.
Chiếc xe của Trần Quang Thuận cũng là một trong những vết thương nội tâm của Tổng Thống. Một người như TT Diệm không thể nào chịu kẻ “nội thù” của chế độ lại là người trong nhà, người của chế độ , vì ông Thuận vẫn giao tế tốt đẹp với một vài nhân vật cao cấp của chế độ thuộc ngành an ninh.
Ngoài ra khi báo chí Mỹ càng công kích chính quyền bao nhiêu thì TT Diệm càng giao động vì bản tính của ông trong bấy lâu rất thận trọng và e ngại các vụ “sì căng đan…” Mặt khác, ông Nhu đã thầm cảm thấy rằng bang giao Việt Mỹ đang rạn nứt trầm trọng. Nắm chính quyền trong tay hẳn nhiên ông Nhu biết rõ thực lực của Uỷ Ban Liên Phái. Điều mà chính quyền e ngại là cao trào đấu tranh sẽ bộc phát trong giới Sinh Viên và Học Sinh vì đây mới là thành phần quan trọng và chính tập thể Sinh Viên và Học Sinh đã đóng vai trò chủ động trong vụ Phật Giáo. Nhưng trung tuần tháng 6 thì giới Sinh Viên và Học Sinh vẫn chưa tham gia tích cực rộng rãi ngoại trừ một số sinh viên đảng phái như trường hợp nhóm Nguyễn Tường Bá, Nguyễn Hữu Doãn, Nguyễn Hữu Đống. Ông Nhu vẫn chủ quan tin tưởng chính quyền đang nắm vững Sinh Viên Học Sinh và giáo chức qua ba tổ chức Tổng Hội Sinh Viên, Tổng Liên Đoàn Học Sinh và Tổng Hội Giáo Giới.
Tóm lại điều quan trọng đối với ông Nhu lúc ấy là bàn tay Mỹ và Cộng Sản. Vụ Phật Giáo chỉ là cơ hội tốt đẹp nhất để Mỹ và Cộng Sản nhảy vào vòng quật ngã chính quyền theo sách lược riêng.
Ông Nhu chủ trương áp dụng biện pháp mạnh đối với thiểu số tranh đấu sách động tức là triệt hạ được cái căn mà từ đó Mỹ cũng như Cộng Sản không có đối thượng để khuynh đảo khuấy động.
Phía TT Diệm lại chủ trương triệt để hòa giải thu xếp làm sao cho êm đẹp. Bởi vậy trong thời gian thi hài Cố Hoà Thượng Thích Quảng Đức còn quàn tại chùa Xá Lợi thì TT Diệm luôn luôn thúc dục ông Nguyễn Đình Thuần phải tìm cách nối tiếp cuộc thương nghị với Ủy Ban Liên Phái đã có đủ thì giờ trắc nghiệm lòng dân đối với cuộc tranh đấu của Phật Giáo. Theo sự thỏa thuận chung giữa Đại Đức Đại Nghiệp, Phát ngôn viên của Ủy Ban Liên Phái và ông Trần Văn Tư Giám Đốc Nha Cảnh Sát Đô Thành thì Phật Tử đến viếng Cố Hoà Thượng Thích Quảng Đức đều tập trung tại chùa Giác Minh, theo lịch trình luân phiên 9 chùa lớn trong Saigon Gia Định sẽ lần lượt từng 400 người được trở đến chùa Xá Lợi do xe Cảnh Sát hướng dẫn. Những chuyến xe đi lại không ngừng nhất là trong ngày 14 ước lượng có đến 5.000 Phật tử được chuyên chở đến chùa Xá Lợi.
BẢN THÔNG CÁO CHUNG
Ngày 14-6 Ủy Ban Liên Phái lại cùng Ủy Ban Liên Bộ tiếp tục thương nghị. Cũng ngày hôm ấy, Hội Đồng các Tướng Lãnh ra thông cáo kêu gọi nhân dân đoàn kết tránh hiểu lầm gây hoang mang và đặt quyền lợi quốc gia lên trên hết. Khi chỉ thị cho các Tướng Lãnh họp hội đồng và ra thông cáo như vậy, dù có lợi cho chánh quyền nhưng ông Nhu bắt đầu đi vào một nước cờ sai lầm hệ trọng. Trước năm 1963, số tướng lãnh tuy còn ít ỏi (18 vị) nhưng là 18 ốc đảo do quyền lợi cá tính địa vị họ không thể nào ngồi cùng với nhau được để bàn tính đại sự nhưng ông Nhu đã tính sai khi qui tụ tướng lãnh lại để cùng bàn luận và ra thông cáo. Kết quả phiên họp ngày 14-6 được coi là tốt đẹp, Ủy Ban Liên Phái ôn hòa đến mức độ phía chánh quyền không ngờ (ngoại trừ phía ông Ngô Đình Nhu) Các Thượng Tọa Tâm Châu cũng như Thiện Minh đều tỏ ra có thiện chí hòa giải và thông cảm Ủy Ban Liên Bộ trong khi đó thì ngay Ủy Ban Liên Phái lại có một vài vị Thượng Tọa Đại Đức tỏ ra tích cực và quyết liệt với chính quyền. Đáng kể là Thượng Tọa Trí Quang và Đại Đức Đại Nghiệp
Lúc ấy hai vị này đang được giới Phật tử nhất là thành phần trẻ hết sức mến mộ.
Lễ an táng Hòa Thượng Quảng Đức ấn định vào ngày chủ nhật. Một số động cán bộ trẻ quyết liệt thì chủ trương phải biến đám tang thành một cuộc tuần hành vĩ đại. Đứng đầu chủ trương này trước sau vẫn là Thượng Tọa Thích Trí Quang cũng như Đại Đức Đại Nghiệp. Nhưng sáng thứ bẩy thì Đô Trưởng Saigon lại gửi cho một văn thư qua Đại Đức Đại Nghiệp lưu ý về vấn đề an ninh và đặt vấn đề trách nhiệm những bất trắc rối loạn có thể xảy ra. Văn thư ấy do tòa Đô Chánh đơn phương gửi đi. Thực tình ông Đô Trưởng chỉ là một nhà hành chánh, quen với lề lối làm việc theo kiểu thư lại chủ nghĩa cho nên gửi văn thư ấy cũng chỉ là cách đề phòng nếu có gì xảy ra thì còn có cớ để trình lên thượng cấp. Nhưng phía Đại Đức Đại Nghiệp lại nghĩ rằng đây là cách đe dọa cố ý. Nhưng cuối cùng Tòa Đô Chánh cũng như Đại Đức Đại Nghiệp đồng thỏa thuận tạm thời dời đám tang lại. Đây là đề nghị của Đại Đức Đại Nghiệp. Vì không phải là nhà chánh trị nên Đô Trưởng và giới chức liên hệ vui vẻ đồng ý ngay. Nhưng xét về kỹ thuật tranh đấu và chống tranh đấu thì Tòa Đô Chánh hố to thua đậm.
Tuy Đại Đức Đại Nghiệp và Đô Trưởng Saigon đã đồng ý rời đám tang Hòa Thượng Quảng Đức đến ngày 10 nhưng Phật tử trong Đô Thành và Gia Định đã sửa soạn đi đưa đám tang vào sáng ngày chủ nhật. Bây giờ phải làm thế nào? Phía Phật Giáo đồng ý đưa ra một thông cáo về quyết định dời ngày an táng mà do chính Đại Đức Đại Nghiệp thỉnh cầu. Nhưng đã quá gấp, tối thứ bảy mới có thông cáo này. Phía Phật Giáo nhờ chánh quyền phổ biến giúp, chính quyền vui vẻ nhận lời ngay.
Nội tối thứ bảy, ngoài việc nhờ Radio liên tiếp phổ biến, giới chức Đô Thành lại còn huy động hàng chục xe phát thanh chạy đến khắp nơi trong Đô Thành từ hang cùng ngõ hẻm đến những đường phố lớn để loan báo thông cáo của Ủy Ban Liên Phái. Dân chúng nghe tin này rất đỗi ngạc nhiên về sự thay đổi như vậy. Trong không khí lúc ấy, không ai tin nơi thiện chí của chính quyền và lại nghi ngờ rằng chắc hẳn chính quyền định chơi trò thủ đoạn nào đây và có lẽ gây áp lực với Ủy Ban Liên Phái buộc phải dời đám tang lại. Dân chúng nghi ngờ như vậy cũng có lý. Nhưng quả thực thì oan cho giới chức Đô Thành chỉ vì đã không đủ kinh nghiệm chính trị lại quá cậu nệ về biện pháp hành chánh mà thực ra không có hiệu lực gì cả chỉ tạo thêm ngộ nhận. Hơn nữa, biện pháp hành chánh đó (kết quả của thói quen thư lại chủ nghĩa) đã phạm vào một lỗi lầm quan trọng về chiến thuật chính trị mà nhà cầm quyền nào khi muốn đương đầu với biến cố không thể nào bỏ qua được. Đó là một “định luật” sơ đẳng về việc sách động một “đám tang chính trị”… Một đám tang có tầm mức quan trọng và đang gây xúc động lớn như đám tang Hòa Thượng Quảng Đức thì càng kéo dài trì hoãn bao lâu càng thắng lợi cho phía đấu tranh. Thi hài Cố Hoà Thượng Quảng Đức quàn tại chùa Xá Lợi trong vòng năm ngày đã là một thời gian khá dài, khí thế tranh đấu mỗi ngày mỗi giờ càng lên cao… Dân chúng càng giao động… thi hài Cố Hoà Thượng càng kết đọng thành một biểu tượng ngào ngạt hương hoa của khí thế như một phiến nam châm thu hút quần chúng… Trong tình thế sôi bỏng như vậy, giới chức Đô Thành bỗng nhiên tự giăng một chiếc bẫy tự ném mình vào chiếc rọ lớn mà chỉ ngày hôm sau (tức sáng chủ nhật) đã nhận ngay ra hậu quả. Phía Ủy Ban Liên Phái tự nhiên thắng lợi và có thể mạnh miệng qui hết trách nhiệm cho nhà cầm quyền với những lý do rõ rệt.
Theo đúng ngày giờ đã định dù đã có thông báo của Ủy Ban Liên Phái hủy bỏ, Phật tử vẫn cứ tấp nập kéo nhau đến chùa Giác Minh để tập trung theo lịch trình đã ấn định đến chùa Xá lợi đưa đám Cố Hoà Thượng. Như đã viết, trong không khí sôi động lúc ấy thì Phật tử đâu có tin vào bản thông cáo của Ủy Ban Liên Phái do nhà cầm quyền phổ biến khi đám đông đã lập thành một khối cả ngàn người thì đám đông đó sẽ làm chủ tất cả vượt trên cả lề luật nguyên tắc và chỉ còn một sức mạnh bị điều động bởi lòng hăng say và sẵn sàng phẫn nộ đúng như vậy, dù các Nhà Sư đến tận nơi nói rõ cho đồng bào rõ, đồng bào vẫn không tin và chuyển hướng luôn “nếu không đi đưa đám tang thì chúng tôi sẽ đến chùa Xá Lợi viếng nhục thể Cố Hoà Thượng”.
Đồng bào ùn ùn kéo đi… đến ngã tư Phan Thanh Giản, Lê Văn Duyệt thì bị chận lại.
Sự hiện diện của Cảnh Sát và Cảnh Sát Chiến Đấu trước mặt đám đông càng tăng cường khí thế của đám đông ấy và sự hiện diện này như một sự khiêu khích (cho dù Cảnh Sát không khiêu khích). Thượng Tọa Tâm Giác và mấy Đại Đức lại phải dùng loa kêu gọi đồng bào giữ trật tự, trở về chùa Giác Minh. Nhưng lúc ấy dù là một Thượng Tọa uy quyền nào cũng khó lòng nói lọt tai đám đông…
Thế là đám đông tràn lên. Cảnh sát đối phó, lựu đạn cay vùn vụt… lại xô xát… một số thanh niên bị bắt… Thêm một đổ vỡ. Vậy thì dù không chủ trương đàn áp nhưng chỉ vì sơ hở không hiểu qui luật tranh đấu phía chánh quyền bỗng dưng mang cái vạ đàn áp, kết quả chưa thu xếp chuyện này xong thì lại tạo ra một chuyện khác.
Mà oán thì nhân viên công lực trực tiếp lãnh đủ nên sau ngày đảo chánh ông Kính Quận 3 đi tù trước tiên chứ ông Đô Trưởng thì không sao cả được coi như người vô can.
Bởi vậy một thành phố Saigon gặp những tháng năm đầy biến cố mà lại gặp viên Đô Trưởng thiếu khả năng chính trị, không ý thức nổi vai trò hay chỉ biết chỉ đâu đánh đấy thì thiết tưởng đó là cái họa cho một chế độ.
Đám tang Cố Hoà Thượng Quảng Đức dời lại thêm 4 ngày nữa… Thật là 4 ngày giông bão đối với Cảnh Sát Quận III và giới an ninh Đô Thành. Nhưng kéo thêm 4 ngày nữa Ủy Ban Liên Phái có lợi từng giờ từng phút. Đó cũng là cơ hội để chuẩn bị tinh thần tranh đấu dài hơn và một dịp ngàn vàng để biểu dương lực lượng với khí thế dâng cao. Mỗi buổi chiều hàng trăm nam nữ công chức đi làm về đều ghé qua chùa Xá Lợi tập trung trên vỉa hè cạnh trường Gia Long để nghe thuyết pháp. Ngày đầu, một số công chức còn e dè sau thấy chính quyền có vẻ yếu thế, tuy một số bị theo dõi nhưng không phải tất cả nên công chức nam nữ càng kéo nhau đến đông. Công chức còn tham dự can đảm như thế huống chi sinh viên học sinh và lao động do có sự tham dự của thành phần công chức nên lại càng hăng hái kéo nhau đến tham dự cứ như thế… như thế theo xúc cảm dây chuyền số quần chúng tham dự càng đông. Còn một điều quan trọng nữa là các bài thuyết pháp của một số Thượng Tọa Đại Đức như Thượng Tọa Trí Quang, Quảng Đức, Đại Đức Nghiệp… Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam và có lẽ trên cả thế giới (ngoại trừ trường hợp Ấn Độ với Thánh Gandhi nhưng Thánh Gandhi không thuyết pháp như ở xứ ta) các Nhà Sư thuyết pháp chỉ đề cập đến thời sự chính trị bất công và kỳ thị tôn giáo. Trong 8 năm và trải qua bao kìm kẹp dân chúng ai cũng hoan hỉ được nghe hay đọc những lời công kích chính quyền càng kịch liệt càng dễ thu hút. Dân chúng thời nào và ở đâu cũng vậy nhất là khu vực Á Phi đầy thống khổ nhục nhằn, dân chúng vẫn không ưa gì chính quyền – ai công kích chống đối chánh quyền đều được dân chúng tán thưởng đến độ khâm phục. Trong 9 năm chế độ Ngô Đình Diệm đây là lần đầu tiên dân chúng được nghe những lời công kích nảy lửa ngay trước cửa chùa.
Nếu công kích Tổng Thống Ngô Đình Diệm thì chưa chắc đã đạt được kết quả mong muốn như công kích vợ chồng ông Nhu nên quả phía các Thượng Tọa Ủy Ban Liên Phái đã đánh trúng cảm quan của dân chúng nhất là đối với lời công kích bà Nhu, dân chúng lại rất tán thưởng. Đó cũng chỉ là tâm lý bình thường của dân chúng ngoài phố. Ở Pháp thời Napoléon dân chúng rất khoái nghe lời bàn tán công kích Hoàng Hậu Joséphine và mấy cô em của Napoléon hơn là chế độ quân chủ chuyên chế của Napoléon.
Phía bà Nhu lại càng sôi nổi tức giận…
Thuyết pháp nảy lửa vẫn tiếp tục thì cuộc thượng nghị của Ủy Ban Liên Phái và Ủy Ban Liên Bộ tại Hội Trường Diên Hồng tự nhiên không đủ hiệu lực để thu hút sự chú ý của dân chúng.
Ngày 16-6, Bản Thông Cáo Chung được ký kết.
Thời gian giải quyết dù mới chỉ là giấy tờ và nguyên tắc chung được coi là quá mau lẹ. Khi bản thông cáo được ký kết, giới quan sát chính trị tại Saigon lúc ấy cũng bất ngờ và cả phía ông Nhu cũng bất ngờ nữa. Riêng ông Nhu tự coi như đã xong chuyện và đó là quyền của ông anh Tổng Thống. Nhưng bản thông cáo ấy ra đời thì bị các biến cố khác vượt qua và tràn ngập. Ngay phía Phật Giáo cũng không mấy ai quan tâm đặc biệt đến Bản Thông Cáo Chung vì mọi người còn đang đổ dồn mọi nỗ lực trong việc an táng Hòa Thượng Quảng Đức và động viên tinh thần Phật tử. Nếu bản thông cáo ấy được ký kết trước vụ tự thiêu của Hòa Thượng Quảng Đức hoặc sau ngày 19-6 thì chắc chắn sẽ có hiệu lực tác động được sự lưu tâm của dân chúng. Bởi vậy sự giải quyết của chính quyền dù thiện chí đến đâu nếu không chọn lựa thời gian và không gian nếu không đáp đúng đòi hỏi của thực tế trong thời gian ấy thì sẽ trở nên phù phiếm bởi nó không có hiệu lực gây nên sự lưu ý đặc biệt của dân chúng để dễ dàng sáng tỏ thiện chí giải quyết.
Họp liên tiếp 3 ngày cho đến 1 giờ 30 ngày chủ nhật (16-6) hai Ủy Ban Liên Phái và Ủy Ban Liên Bộ đã ký kết Bản Thông Cáo Chung gồm 5 điểm để giải quyết 5 nguyện vọng do Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam đề ra. Phái đoàn Phật Giáo do ba Thượng Tọa Tâm Châu, Thiện Minh, Thiện Hoa đồng ký tên.
Phía chính quyền gồm Phó TT Thơ, Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần, Bùi Văn Lương. Dưới Bản Thông Cáo Chung, Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết “khán” với tư cách Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Khi đưa bản thông cáo này về Dinh Gia Long, Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho ông Thuần biết là tốt đẹp. Nhưng Tổng Thống lại ngần ngại về điểm ông sẽ ký ở chỗ nào trong bản thông cáo.
Trong văn phòng Tổng Thống lúc ấy có mặt ông Nhu, ông Thuần. Cả ba người đều không tìm được cách giải quyết về điểm nhỏ này nhưng đối với TT Diệm là một sự quan hệ. Theo ông Thuần thì không lẽ Tổng Thống với tư cách quốc trưởng lại ký ngang hàng với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết.
Dù vị Hòa Thượng là thủ lãnh tối cao của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam nhưng Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam cũng chỉ là một đoàn thể trong cộng đồng quốc gia. Tổng Thống Diệm cũng suy luận như vậy cho nên ông ngần ngại không chịu ký. Ông Nhu vẫn lạnh lùng không có một ý kiến nào.
Ba người ngồi im lặng tìm cách giải quyết cả giờ đồng hồ nhưng vẫn bế tắc.
TT Diệm bảo ông Thuần “cho mời bà Nhu xem bà có ý kiến nào không”.
Đã từ lâu TT Diệm vẫn thường nói với BS Tuyến cùng mấy cộng sự viên thân cận “đàn bà họ kém về lý luận nhưng trực giác của họ thì hay lắm”. Riêng bà Nhu đã nhiều lần chứng tỏ trực giác nhạy bén. Khi bà Nhu vào văn phòng Tổng Thống xem Bản Thông Cáo Chung rồi nói:
– Như thế này đâu có được Tổng Thống làm sao lại ký tên ngang hàng với ông cụ ấy được (tức Hòa Thượng Khiết).
Bà Nhu lắc đầu có vẻ chê bai và nói:
– Nếu mai mốt Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới có chuyện tranh chấp với chánh phủ đòi chánh phủ phải giải quyết nguyện vọng rồi thì chính phủ cũng ra thông cáo chúng rồi Tổng Thống cũng ký với tôi hay sao? Một quốc gia trong một quốc gia không có được.
TT Diệm vẫn ngần ngại, không nói gì. Ông Thuần trình bày về sự khó khăn không biết Tổng Thống phải ký ở chỗ nào mà không ký cũng không được, TT Diệm hỏi bà Nhu:
– Vậy ý của bà thế nào?
Bà Nhu đáp ngay:
– Có gì đâu mà khó khăn. Bây giờ hai bên đã ký cả rồi. Cụ Tịnh khiết cũng ký khán như thế này rồi thì Tổng Thống ký ở ngoài lề như là bút phê vậy.
TT Diệm cho là phải và đồng ý ngay. Ông Tổng Thống cầm bút phê phía ngoài lề bản thống cáo: “Những điều ghi trong Bản Thông Cáo Chung này thì đã được tôi chấp thuận trên nguyên tắc ngay từ lúc đầu” dưới hàng chữ này, Ký tên: Ngô Đình Diệm.
Bản Thông Cáo Chung vẫn không gây được sự chú ý đặc biệt của dư luận. Nhưng phía chánh quyền Mỹ thì hoan hỉ cho rằng, chính quyền Việt Nam và Phật giáo đạt được một thỏa hiệp cuộc khủng hoảng có thể sớm giải quyết.
Nhưng ngay chiều 16-6, hơn 100 tăng ni trong đó có Hòa Thượng Tâm Châu đã biểu tình trước tư Dinh Đại Sứ Mỹ để yêu cầu chính quyền Mỹ và các nước khối tự do phải dùng áp lực thuyết phục chính quyền Việt Nam thục thi đứng đắn Bản Thông Cáo Chung. Cũng vào giờ đó, tức 19:20 thì Bản Thông Cáo Chung vẫn còn nằm trên bàn TT Diệm. Sau cuộc biểu tình, một số tăng ni lại kéo nhau về chùa Xá Lợi mở đầu cuộc tuyệt thực.
Mỗi lần biểu tình tuyệt thực như vậy lại cung cấp thêm cho báo chí ngoại quốc những đề tài hấp dẫn mới lạ. Bản Thông Cáo Chung không còn là đề tài hấp dẫn đối với báo chí ngoại quốc.
Cuộc khủng hoảng Phật giáo trở thành vấn đề số một đối với TT Kennedy cho nên trong những ngày 13, 14, 15 và sáng ngày 16 Phó Đại Sứ Mỹ liên tiếp ra vào Dinh Gia Long. Ký giả David Halbeitam viết: Phật giáo thương thuyết về 5 điểm. Ngày 16-6 hai bên đã ký một văn bản kỳ dị về quan điểm của 2 phía. Phật giáo được nhượng bộ một vài điểm nhưng chính phủ không nhìn nhận có trách nhiệm về “biến cố Huế”. Tầm nhìn của ký giả Mỹ như vậy nếu không có ý xuyên tạc thì cũng không nắm vững tinh thần văn bản như dư luận Mỹ lại luôn luôn bị kích động và hướng dẫn bởi báo chí mà báo chí Mỹ được coi như một tập thể tạo áp lực (pressure group) đối với chính quyền và quốc hội Mỹ. Thực ra, điều 5 của Bản Thông Cáo Chung đã ghi rõ: “những cán bộ có trách nhiệm về các vụ xảy ra ngày 8-5-1963 bất kỳ thuộc thành phần nào cũng sẽ bị nghiêm trị nếu cuộc điều tra đang tiến hành chứng tỏ lỗi của họ”. Dư luận Mỹ trong nhưng ngày 13, 14 đến 15 đều đổ dồn vào vụ tự thiêu của Hòa Thượng Quảng Đức cùng các vụ xô sát vào ngày 16 và cuộc biểu tình của tăng ni vào chiều 16. Báo Mỹ như tờ New York Time, New York Herald Tribune, Chritian Science Monitor phát hành ở Mỹ vào hôm trước thì chỉ vài ngày sau lọt vào mấy tay Thượng Tọa, Đại Đức của Ủy Ban Liên Phái và được dịch ra ngay Việt ngữ và quay ronéo phổ biến bí mật trong Đô Thành. Đây cũng là một động cơ thúc đẩy đám đông như từng cục than hồng.
Tháng 5-1960 những nhân vật thân cận của TT Diệm cũng đã hội lại để đồng thanh yêu cầu TT Diệm duyệt xét lại chế độ. Nhưng kết quả chỉ là những chuỗi ngày im lặng rồi mọi việc lại trôi qua. Cũng nên nhắc lại, tháng 5-1960, Đại Tá Đỗ Mậu, Giám Đốc Nha ANQĐ (người theo TT Diệm từ năm 18 tuổi và trở thành cán bộ giao liên giữa Hoàng Thân Trang Liệt và TT Diệm) đã cùng với Cha Thính, ông Võ Văn Hải, Tôn Thất Trạch và một “đồng chí” khác đã họp bàn và dự định đồng loạt từ chức để TT Diệm lưu ý duyệt xét lại những sai lầm của chế độ. Đại Tá Đỗ Mậu cũng như Võ Văn Hải, Tôn Thất Trạch đều là những người theo phò TT Diệm từ tiền chiến cũng như vụ đảo chính hụt 11-11-1960, chính những nhân vật quan trọng của chế độ Ngô Đình Diệm đã thỉnh cầu TT Diệm cũng như ông Nhu là nên nới rộng thể chế dân chủ, chấp nhận một lực lượng quốc gia đối lập. Nhưng đều vô hiệu.
Chỉ một lá thư của BS Tuyến gửi riêng cho ông Nhu phê bình một số sai lầm của chế độ và cái áo dài của bà Nhu không nhưng không được lưu ý mà còn bị gạt ra ngoài nguyên nhân cũng từ lá thư đó… Vì lá thư ông Nhu để ngỏ trên bàn làm việc và bà Nhu đã được coi. Có lẽ đó cũng là cách ông Nhu gián tiếp cho bà vợ thấy rõ những điểm nhận định của người cộng sự thân tín. Tuy nhiên bà Nhu không phản ứng gì nhưng dần dần lạnh nhạt với vợ chồng BS Tuyến. Năm 1963 mâu thuẫn nội bộ càng thêm trầm trọng. Chẳng hạn như con người Phạm Ngọc Thảo, Tướng Huỳnh Văn Cao thì nhất định cho rằng Thảo là Cộng Sản. Đai Tá Đỗ Mậu, nắm ngành an ninh quân đội lại cả quyết là không. BS Tuyến cũng nghĩ như vậy và là bạn thâm tình của Thảo.
Từ một vấn để nhân sự nhỏ bé như vậy cũng đã chứng tỏ chế độ càng ngày càng phân hóa. Phe nhóm tuy chưa công khai xuất hiện nhưng âm thầm công kích và nghi ngờ lẫn nhau. Ngay trong lòng chế độ mà chưa phân biệt ai là bạn ai là thù thì trách chi người ngoài!
Kể từ tháng 6-1963 những thành phần trụ cột của chế độ không keo sơn gắn bó với chế độ nữa. Từ những nhân vật trụ cột đều thâm cảm thấy rằng chế độ lâm nguy nếu không kịp thời tìm biện pháp cứu đỡ thì vô phương. Nhưng họ không còn thẩm quyền. Thế lực của vợ chồng ông Nhu mỗi ngày một lớn dần.
Tổng Thống Diệm càng ngày càng cô đơn nhất là sau cái chết của nhà văn Nhất Linh thì hầu như TT Diệm buông tay. Vụ mưu sát TT Diệm ngay trong Dinh Gia Long lại làm cho ông cô đơn hơn nữa. Có nhẽ đó cũng là những lý do khiến TT Diệm quyết định sẽ trở về hưu dưỡng khi nhiệm kỳ II chấm dứt.
Trong vụ tranh đấu Phật giáo không rõ từ phía nào chủ trương mưu sát TT Diệm và họ đã móc nối được với ủy viên chuẩn úy hướng dẫn và nghi lễ của văn phòng Tổng Thống. Viên sĩ quan này đã phục vụ lâu năm trong Dinh Gia Long và trực thuộc Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống. Nhiệm vụ của ông ta không có gì quan trọng nhưng lại là người dễ dàng thi hành mưu đồ ám sát Tổng Thống. Hàng ngày viên Chuẩn Úy hướng dẫn, mũ áo đại lễ chỉ có nhiệm vụ hướng dẫn quan khách đến văn phòng Tổng Thống. Ông ta cũng như các sĩ quan tùy viên và hầu cận hàng ngày đều giáp mặt Tổng Thống Diệm. Tất nhiên là họ thuộc thành phần được tin cẩn. TT Diệm vẫn tự hào về sự trung thành tuyệt đối của các quân nhân lo việc an ninh cho ông.
Đặc biệt những sĩ quan thân cận như Lê Công Hoàn, Đỗ Thọ, Huỳnh Văn lạc, Lê Châu Lộc, ông Tổng Thống coi như con cái trong nhà. Vậy mà lại có một sĩ quan hướng dẫn âm mưu giết hại ông và vợ chồng ông Nhu. Âm mưu này phát giác được do một sự tình cờ.
Số là trong khi cuộc tranh đấu của Phật giáo đang sôi động thì thân phụ của Trung Úy Kiệt bị bắt giam (ông là một đại diện thuộc Phật giáo tỉnh Gia Định) Trung Úy Kiệt lại là một sĩ quan truyền tin cũng là một trong số quân nhân trung thành tuyệt đối của TT Diệm. Khi thân phụ ông bị bắt giam vì lý do tranh đấu Phật Giáo thì kẻ chủ mưu ám sát TT Diệm đã nắm ngay cơ hội này để móc nối. Nhưng sự việc xảy ra lại khác nên âm mưu này bất thành. Bởi vì khi thân phụ Trung Úy Kiệt bị bắt ông đã trình bày ngay với Thiếu Tá Nguyễn Hữu Duệ, tham mưu trưởng Lữ Đoàn, ông Duệ trình bày thẳng với Trung Tá Khôi Tư lệnh và cho rằng: “Kiệt nó là một sĩ quan phục vụ đắc lực như vậy bây giờ công an lại bắt ông già của nó thì còn ra cái gì, xin Trung Tá can thiệp gấp”. Sau đó, Trung Tá Khôi cũng như Thiếu Tá Duệ liên lạc thẳng với ty Công an Gia Định và Đại Tá Nguyễn Văn Y, TGĐCSQG. Hai cơ quan liên hệ này đều đồng ý trả tự do ngay.
Về những tin đồn mưu sát TT Ngô Đình Diệm thì nhiều lắm song phần lớn đều là tin vịt. Phía ông Nhu thỉnh thoảng cũng bắn ra một vài tin như vậy với chủ ý thăm dò phản ứng của dân chúng hoặc là để tìm các “con mồi” đối lập. Những vụ mưu sát này được dấu kín sau ngày 1-11-1963 viên chuẩn úy được tự do ông ta mới tiết lộ. Ngay những nhân vật cao cấp tại Dinh gia Long cũng không hay biết gì cả.
Khi thân phụ của Trung Úy Kiệt đang được Thiếu Tá Duệ và Trung Tá khôi can thiệp để được trả tự do thì viên sĩ quan hướng dẫn lại tìm đến Trung Úy Kiệt, sau khi tác động tinh thần về công cuộc tranh đấu của Phật giáo, viên sĩ quan này ngỏ lời yêu cầu Trung Úy Kiệt tham dự cuộc mưu sát mà ông ta đã bố trí từ lâu, đương sự tiết lộ một lần viên sĩ quan hướng dẫn đã thủ sẵn trái lựu đạn trong người và định lấy ra thanh toán song lần ấy chỉ TT Diệm mà không có vợ chồng ông Nhu nên đương sự đành chờ cơ hội khác nghĩa là khi nào thấy có mặt đầy đủ, vợ chồng ông Nhu và TT Diệm thì lúc ấy mới hành động.
Trung Úy Kiệt là một sĩ quan tin cẩn của một Lữ Đoàn LBPVPTT nên ông đã đem ngay câu chuyện mưu sát này báo cáo với Thiếu Tá Duệ. Sau cuộc họp bí mật với Tư Lệnh Lữ Đoàn, ông Duệ ra lệnh giam lỏng viên Chuẩn úy hướng dẫn. Công việc diễn tiến hoàn toàn kín. Thiếu Tá Duệ trình bày với Trung Tá Khôi: “Nếu tin này tiết lộ ra ngoài thì mất hết uy tín của Lữ Đoàn. Lữ Đoàn từ lâu vẫn có tiếng là trung thành tuyệt đối vời Tổng Thống nay lại có một sĩ quan ở ngay trong Dinh định mưu đồ như vậy thì nguy, tin này nếu tiết lộ ra ngoài sẽ làm hoang mang Lữ Đoàn.” Trung Tá Khôi cũng đồng ý như vậy. Ngay buổi chiều hôm ấy Thiếu Tá Duệ triệu tập một phiên họp các sĩ quan của Lữ Đoàn và cho biết: “Hiện nay bên lực lượng đặc biệt, Đại Tá Tung đang cần một sĩ quan liên lạc với Lữ Đoàn vậy anh em nào có thể tình nguyện sang bên đó làm việc?”
Trước khi lên tiếng như trên Thiếu Tá Duệ đã dặn Đại Úy Ngân, sĩ quan an ninh của Lữ Đoàn “khi tôi lên tiếng hỏi anh em có ai tình nguyện qua lực lượng đặc biệt không thì Ngân phải đứng lên ngay và đề nghị Chuẩn Úy Thành tức viên sĩ quan hướng dẫn” Được dặn trước nên Đại Úy Ngân giơ tay trả lời ngay: “Tôi xin đề nghị Chuẩn úy Thành, Chuẩn úy có đủ khả năng là liên lạc cạnh lực lượng đặc biệt”. Thiếu Tá Duệ chấp thuận liền, “được lắm thôi để Thành sang bên đó tôi sẽ xin một người khác làm sĩ quan hướng dẫn”. Một lát sau Thiếu Tá Duệ bảo Đại Úy Ngân: “bây giờ hết giờ làm việc rồi, anh đưa anh Thành qua ngay lực lượng đặc biệt đi, không họ cứ hối thúc mình mãi”. Câu nói này là một mật lệnh bảo Đại Úy Ngân lái xe chở viên sĩ quan vào Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, ông Duệ đã chỉ thị cho Đại Úy Ngân “Tôi đã điện thoại qua bên ấy rồi”
Anh dặn thêm bên ấy là phải đối xử với hắn như một sĩ quan hơn nữa Cụ dặn (tức TT Diệm) không được “đụng chạm” gì tới hắn cả – Đại Úy Ngân không quên mua tặng “người anh em” một tút thuốc Ruby
Trước khi đưa viên sĩ quan hướng dẫn qua giam lỏng bên LLĐB, Trung Tá khôi và Thiếu Tá Duệ đã trình bày tự sự với TT Diệm. Nghe tin này ông Tổng Thống ngồi lặng một hồi lâu. Ông nói có vẻ than thở: “Những người ở gần tôi còn không hiểu tôi huống chi dân nó ở xa”. TT Diệm chỉ thị cho Trung Tá Khôi không trừng phạt kẻ mưu sát ông, ông nói: “Phải giảng dạy cho nó, nói cho nó biết lẽ phải trái. Cái lỗi là vì mình không chịu tổ chức học tập”.
Kể từ đó, lữ đoàn LBPV được chỉ thị tổ chức các buổi học tập hàng tuần.
Giới thân cận đều xác nhận rằng TT Diệm mỗi ngày càng thêm cô đơn và ông trở thành người trơ trọi gần như buông tay để mặc ông Nhu nắm quyền chủ động. Có lẽ TT Diệm đã bị ám ảnh bởi số mệnh. Ngoài ra cái thú nghe ca Huế và đàn tranh hoặc ngồi xem đánh cờ nghiên cứu bản đồ vẽ tranh và làm thơ, ông Tổng Thống còn say mê món tử vi và địa lý. Ông gần như thuộc nằm lòng “cái đất có hàm rồng, mảnh đất kia hãm địa”. Chẳng hạn như Dinh Độc Lập ông băn khoăn đầu Rồng là Dinh nhưng cái đuôi lại ở chỗ Công Trường Chiến Sĩ, bởi vậy có nhiều đề nghị phá Đài Chiến Sĩ để chứng tỏ bài phong phản thực (chống Pháp) và xây một công viên tạo cho Tòa Viện Trưởng có một khuôn mặt tươi mát.
Ông Tổng Thống có vẻ thuận tai nhưng sau thì không chấp nhận vì dù sao cái đài chiến sĩ cũng có tác dụng đè cái đuôi con Rồng xuống. Tuy vậy không ai thấy ông Tổng Thống cho gọi thầy bói vào Dinh. Đại Tá Đỗ Mậu thường được gọi vào Dinh mạn đàm với Tổng Thống Diệm về khoa tử vi lý số. Có khi Tổng Thống Diệm và Đại Tá Mậu ngồi nói chuyện về tử vi lý số đến 1, 2 giờ khuya. Ông Tổng Thống nói một cách say mê nào là cung mệnh có sao Phục Binh thì , vì thế cung này có sao La Hầu thì sẽ thế kia… Năm 1963 Đại Tá Mậu đã trình bày với Tổng Thống Diệm tử vi của cụ năm nay xấu. So với những năm trước thì năm 1963 Tổng Thống Diệm ít đi kinh lý. Nhưng sau cái chết của nhà văn Nhất Linh tuần nào ông Tổng Thống cũng lên Đà Lạt đi săn… Theo tùy viên Lê Công Hoàn thì đúng ra ông Tổng Thống đi tìm một quên lãng phá tan nỗi niềm cô đơn. Theo như Đại Tá Mậu thì giữa năm 1963 hai ông thầy Minh Lộc và Đa La đã tiên đoán Tổng Thống Diệm gặp đại nạn có thể mất mạng. Riêng Tổng Thống Diệm có nhẽ cũng đã linh cảm được cơn hoạn nạn của số mệnh đang đến với ông.
Tuy rất ham thích môn tử vi lý số nhưng Tổng Thống Diệm không tỏ lộ cho ai biết món sở thích này ngoài một vài người tâm giao. Ông Tổng Thống vẫn tự hào về quê hương Quảng Bình của ông nhất là huyện Lệ Thủy và Tổng Đại Phong. Riêng Tổng Đại Phong được coi là phát vì Võ Nguyên Giáp thì làm đến Đại Tướng Tổng Tư Lệnh của Quân Đội miền Bắc – và gia đình họ Ngô mấy đời tế thế công danh – Võ Nguyên Giáp (con cụ Cửu Sinh, một địa chủ, người An Xá) vốn cùng một tổng, một huyện với với Tổng Thống Diệm. Các bậc tú nho ở Lệ Thủy thì đầu thế kỷ 20 đã khám phá ra rằng, ngôi Đình của xã Đại Phong (thuộc tỉnh Đại Phong) “kết”. Vì mái ngói đã bao nhiêu đời nhưng màu nắng vẫn phản chiếu màu trắng bạc như kim cương. Con Hói (tức con ngòi nhỏ) chảy vào thôn Tây Hà (làng Tổng Thống Diệm) có Long mạch nên nếu con hói cạn, dân làng chỉ vét mà không dám đào. Vì đào sẽ động mạch, nước đỏ phun lên. Nói ra thì cho là dị đoan nhưng năm 1963 sau hai cái chết rung động tột độ – Hòa Thượng Quảng Đức và nhà Văn Nhất Linh – cũng có thêm hai điềm lạ, một là cọp sở thú sinh 3 con (27-3) hai là thay đổi huy hiệu quân đội (cấp sĩ quan). Đúng ngày 7-7-1963 kỷ niệm 9 năm chấp chánh. Tổng Thống Diệm quyết định thay đổi huy hiệu quân đội. Riêng huy hiệu trên mũ của Lục Quân đáng cho ta suy nghĩ. Dưới hình khóm trúc (quốc huy của Đệ I Cộng Hòa) là một ngọn lửa thiêng. Dạo ấy nhiều người rỉ tai bàn phiếm “như thế này thì lửa sẽ thiêu rụi khóm trúc”. Rồi không hiểu sao lại có sự trùng hợp thế này: Bộ Tổng Tham Mưu ra quyết định buộc các quân nhân phải mang huy hiệu mới trên mũ kể từ ngày 1-11-1963. Ngày đó đúng là ngày ngọn lửa cháy bùng thiêu rụi khóm trúc, quốc huy của Đệ I Cộng Hòa. Rồi huy hiệu mới này cũng bị bãi bỏ luôn.
CÁI CHẾT CỦA MỘT NHÀ VĂN
Trên đây chỉ là một vài chi tiết xin bàn phiếm. Bây giờ xin trở lại cái chết của nhà văn Nhất Linh ngày 7-7-1963. Được tin này, Tổng Thống Diệm sửng sốt và xúc động mạnh như tin Hòa Thượng Quảng Đức tự thiêu. Ông nói với Bộ Trưởng Thuần: “việc có gì đâu mà phải làm như vậy… ra Tòa rồi thì cũng tha bổng cho ông ấy…”
Trong các chính khách tại miền Nam thì Nhất Linh Nguyễn Tường Tam được Tổng Thống Diệm kính trọng hơn cả. Chưa bao giờ ông Nhu có một lời chỉ trích nặng nhẹ nào một khi BS Trần Kim Tuyến có dịp đề cập đến ông Nguyễn Tường Tam.
Theo BS Tuyến thì đối với các chính khách, ông Nhu tỏ vẻ khinh thường và hay nặng lời chê bai, riêng Nhất Linh ông Nhu không khen không chê thì phải là trong thâm tâm ông đã dành cho Nhất Linh một sự kính nể nào đó.
Từ BS Tuyến đến cha Jaegher, ông Võ Văn Hải đều có lòng cảm phục và kính trọng nhân cách của Nhất Linh. Riêng BS Tuyến cũng có nhiều dịp đàm đạo với nhà văn Nhất Linh trong những bữa cơm có tính cách gia đình thân mật. Bữa cơm đầu tiên tổ chức tại trụ sở Trung Tâm Bút Việt, chính BS Trần Kim Tuyến nói: “dạo Cụ ra nghỉ mát ở Sầm Sơn thì tôi đang đi học lúc ấy ái mộ Cụ lắm và có viết thư xin Cụ dạy cho cách viết văn”. Nhất Linh tỏ vẻ cảm động. Điều quan hệ là trong suốt 9 năm chế độ Ngô Đình Diệm, Nhất Linh không hề dan díu gì đến tiền bạc với Chính quyền. BS Tuyến gặp gỡ nhà văn Nhất Linh cũng chỉ là tâm tình giao tế. Nhất Linh không hề cầu cạnh gì cả. Khi Nhất Linh ra lại tờ Ngày Nay (1955) là do tiền túi của ông, chính quyền không hề tài trợ. BS Tuyến cũng xác nhận. Nhất Linh thật là con người ái quốc, có tư cách, có phong độ rất mực đường hoàng. Điều đặc biệt là Nhất Linh không có sự giao tế liên lạc nào đối với các nhân vật Mỹ tại Saigon cho đến ngày ông chết.
Vụ tự thiêu của Hòa Thượng Quảng Đức còn có những lời chỉ trích nặng nhẹ. Nhưng khi nghe Nhất Linh tự tử ông bà Nhu lại yên lặng… Ông Nhu chỉ nói vắn tắt: “coi xem có âm mưu nào ám sát ông ấy không”. Tổng Thống Diệm cũng lo ngại như thế nên nội ngày 8, Tổng Thống ra lệnh cho giới chức an ninh phải điều tra phúc trình ngay xem có thật nhà văn Nhất Linh tự tử, Tổng Thống Diệm tỏ ra xúc động hơn cả tin Hòa Thượng Quảng Đức tự thiêu. Ông lầm lì cả ngày, bẳn gắt và hút thuốc lá hết điếu này đến điếu khác.
Tổng Thống Diệm rất có cảm tình với gia đình Nguyễn Tường nhất là Hoàng Đạo. Vào dạo năm 1959, một lần đàm đạo với Tổng Thống Diệm và nhắc đến nhà văn Hoàng Đạo, Tổng Thống Diệm bỗng ngắt lời BS Tuyến và hỏi thăm:
– Bây giờ vợ con ông ấy sống như thế nào?
BS Tuyến cho hay hiện bà Hoàng Đạo mở cửa hàng bán chả cá. Ông Tổng Thống dặn: “Anh xem bà ta có túng thiếu thì tìm cách giúp đỡ, khi nào có dịp cho tôi có lời hỏi thăm”.
Rồi Tổng Thống Diệm không tiếc lời ca ngợi: “Nguyễn Tường Long khá lắm. Ông ta đối với tôi tốt lắm”.
Đại cương giữa Tổng Thống Diệm và nhà văn Nhất Linh đều có sự tương kính. Điểm đặc biệt khác, lúc còn sinh thời nhà văn Nhất Linh cũng không có một lời nào công kích nặng nề đối với cá nhân Tổng Thống Diệm và ông Nhu. Bộ Giáo Dục thời đó lại có sáng kiến đưa nhóm Tự Lực Văn Đoàn vào chương trình học hàng năm, có những đề thi Quốc Văn Tú tài I. Đề thứ nhất thí sinh phải bình luận về sự nghiệp của Nhất Linh hoặc Hoàng Đạo… Đề thứ hai thí sinh lại phải bình luận về lời nói của Tổng Thống Ngô Đình Diệm (trích trong các bài diễn văn). Trước vụ đảo chánh hụt 11-11-1960 chính quyền Ngô Đình Diệm không có một sự theo dõi nào đối với nhà văn Nhất Linh. Việc ông trở thành Cố Vấn của Hội Bút Việt, chính quyền dạo ấy cũng không can dự vào.
Hơn nữa, Hội Bút Việt lại do một đồng chí của ông điều khiển trong đó có Hiếu Chân, Như Phong.
*
**
Đúng vào ngày Song Thất kỷ niệm 9 năm chấp chánh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nhà văn Nhất Linh uống thuốc độc tự tử với lời di chúc: “Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội các phần tử đối lập Quốc Gia là một tội nặng, sẽ làm cho nước mất về tay Cộng Sản”.
Nhất Linh có tham dự trực tiếp vào cuộc đảo chánh hụt 11-11-1960 trong đó có một số quân nhân trẻ là cán bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nói là trực tiếp cũng không đúng. Nhất Linh chỉ đứng tên trong tờ truyền đơn lên án chế độ Ngô Đình Diệm và ông có tham dự vài phiên họp cùng với cụ Phan Khắc Sửu và một số nhân sĩ khác.
Cuộc đảo chánh bất thành thì ngày 13-11-1960, Nhất Linh vào tỵ nạn tại tòa Đại Sứ Trung Hoa Quốc Gia. Đại Sứ THQG lúc ấy là ông Viên Tử Kiên, một người bạn thân của Nhất Linh. Sáng 14 một trung đội Cảnh Sát Dã Chiến có đến bao vây Tòa Đại Sứ nhưng sau được lệnh rút đi ngay. Việc tỵ nạn bất thần của Nhất Linh đã làm cho Đại Sứ Viên Tử Kiên lâm vào thế kẹt. Một mặt Trung Hoa Quốc Gia đang ủng hộ triệt để Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Mặt khác, Nhất Linh không những là bạn của Đại Sứ Viên Tử Kiên mà còn là bạn của Phó Tổng Thống Trần Thành cùng một số viên chức cao cấp của chính phủ Đài Loan. Quả thực chưa có một chánh khách nào tại miền Nam chống chính quyền mà lại được các nhân vật nòng cốt của chính quyền ưu ái và tận tình che chở như trường hợp Nhất Linh.
Đại Sứ Viên Tử Kiên, có điện thoại báo tin cho Dinh Độc Lập biết và ông cũng báo tin cho cha Jaegher, Linh mục Dòng Tên rất có uy tín với Tổng Thống Tưởng Giới Thạch và Ngô Đình Diệm lại là người mến mộ Nhất Linh coi ông như bạn tâm giao.
Sáng 14-11, Cha Jaegher điện thoại cho ông Võ Văn Hải nói về tình trạng tỵ nạn của Nhất Linh và yêu cầu ông Võ Văn Hải tìm cách nào dàn xếp êm đẹp. Đồng thời BS Tuyến gặp riêng ông Nhu trình bày về trường hợp Nhất Linh. Sau đó BS Tuyến lại qua phòng Tổng Thống Diệm thỉnh cầu Tổng Thống thu xếp vụ ông Nguyễn Tường Tam… Buổi chiều 14-11, chính cha Jaegher thân hành vào Dinh xin gặp Tổng Thống Diệm để can thiệp cho Nhất Linh. Tổng Thống lúc đầu còn do dự sau ông quyết định để cho ông Tam thong dong. Nhưng giải quyết như thế nào để cho hai bên cùng vui vẻ? Nếu cứ để Nguyễn Tường Tam rời khỏi Tòa Đại Sứ Trung Hoa về nhà thì cũng kẹt cho cái thế của chính quyền. Cuối cùng Dinh Độc Lập thỏa thuận để Viên Tham Vụ Tòa Đại Sứ lái xe đưa Nhất Linh về Tổng Nha Cảnh Sát và ở đấy lấy lời khai Nhất Linh cho nó phải phép. Trước sau ông tạm ở Nha Cảnh Sát lâu hơn 1 giờ. Mấy ngày sau Cảnh Sát lại mời ông ra một lần nữa để kết thúc hồ sơ. Từ đó cho đến ngày tạ thế, Nhất Linh được thong dong. Tuy nhiên có một điều như thế này: Nhất Linh được tự do nhưng phần những ai ra vào nhà ông lúc về đều bị Cảnh Sát chìm theo dõi.
Nhất Linh tự tử làm cho cả Tổng Thống Diệm lẫn ông Nhu đều ngỡ ngàng, Tổng Thống Diệm có chỉ thị đi tìm mấy người con Nhất Linh vào Dinh để gặp ông. Nhưng không hiểu vì lẽ gì không có cuộc tiếp xúc này.
Có thể nói trọn ngày 8-7, Tổng Thống Diệm dành cả thì giờ theo dõi vụ Nhất Linh tử. Theo các sĩ quan tùy viên như Đại Úy Lê Công Hoàn thì ông Tổng Thống xem xét hồ sơ rất kỹ và ông chỉ thị phải chứng minh cho mọi người thấy đây là một vụ tự tử, chính quyền không có âm mưu nào. Tổng Thống Diệm và ông Nhu băn khoăn nhất là sơ mang tiếng chính quyền có can dự vào cái chết của Nhất Linh.
Nhất Linh tự tử đã gây xúc động sâu xa trong giới trí thức văn nghệ báo giới và sinh viên vì ảnh hưởng tinh thần đối với các giới này thật lớn lao. Chế độ Ngô Đình Diệm nhận lãnh một thất bại bất ngờ.
Tại sao vụ 11-11-1960 kéo dài cho đến năm 1963 mới đem ra xét xử?
Nếu đem vụ 11-11-1960 ra xử ông Tổng Thống lại e ngại sẽ làm hoang mang quân đội nhất là phía Nhảy Dù chiếm đa số. Trường hợp Thiếu Tá Phan Trọng Chinh, ông Tổng Thống vốn có cảm tình đặc biệt với Binh Chủng này. Mặc dầu, một số đơn vị này và sĩ quan Nhảy Dù tham dự cuộc đảo chính nhưng dịp thăng thưởng cuối năm 1960, sĩ quan Dù lại chiếm một tỷ số cao. Riêng Tiểu Đoàn I Nhẩy Dù, vì có chiến công lớn trong trận Kiến Phong vào cuối tháng 11-60, nên một lúc 7 sĩ quan được thăng cấp. Tổng Thống Diệm vẫn yên trí Đại Tá Thi bị lôi kéo và ông không có âm mưu tạo phản. Tổng Thống Diệm lưu luyến đặc biệt Đại Tá Thi nguyên Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn III Nhảy Dù. Ông Tổng Thống cũng đặc biệt lưu ý khi Phan Trọng Chinh còn là Đại Úy chỉ huy Tiểu Đoàn III đánh dẹp Bình Xuyên. Dù chỉ là một sĩ quan cấp nhỏ nhưng Phan Trọng Chinh cũng đã lọt vào “mắt xanh” của vị Tổng Thống vốn coi Nhảy Dù như sức mạnh của chế độ.
Ông Tổng Thống vẫn cảm phục binh chủng này nhất là những sĩ quan trẻ đã biểu dương khả năng của họ trong cuộc dẹp loạn Bình Xuyên và Tiểu Đoàn III, V và I Nhẩy Dù là những đơn vị hiển hách. Năm 1960, khi Binh Chủng BĐQ được thành lập, Thiếu Tá Phan Trọng Chinh được đề bạt làm chỉ huy trưởng. Thời đó với chức vụ này phải hiểu là người quan trọng và nếu không phải là người trong Đảng thì cũng phải là tay có khả năng được Tổng Thống Diệm tin yêu. Kể từ năm 1958 khi chế độ Ngô Đình Diệm bắt đầu vững mạnh, ông Nhu cũng như Tổng Thống Diệm bắt đầu lưu ý đến thành phần sĩ quan trẻ, ông Ngô Đình Nhu cho rằng: “bọn trẻ dù sao cũng có học, trong sạch không có máu Lê Dương”. Đó cũng là trọng tâm của Sở Nghiên Cứu Chánh Trị trong công tác “móc nối” với những sĩ quan trẻ này, Phan Trọng Chinh cũng như các sĩ quan trẻ trong vụ 11-11-1960 vốn được coi như “tương lai của miền Nam”. Đùng một cái, như sét đánh… hàng hai chục sĩ quan trẻ tham dự đảo chánh. Sau vụ 11-11-60, Tổng Thống Diệm vẫn yên trí vụ này có bàn tay Pháp dính vô. Căn cứ theo báo cáo, ông Tổng Thống cho rằng “mấy đứa nhỏ bị nó lôi kéo. Tất cả do Vương Văn Đông nó bị Pháp mua chuộc”.
Sở dĩ chúng tôi phải dài dòng ở phần này vì cuộc đảo chánh 63 được mô tả như một “cú ngoạn mục” với âm mưu sắp đặt của Hoa Kỳ thì cú “60″ được mô tả như một cuộc nổi loạn bất thường của một số tuổi trẻ trong quân đội. Cú 60 mang mầu sắc tình cảm và Quốc gia cực đoan hơn là cú “63″ mang tính chất cơ hội và hoạt đầu.
Ngoại trừ Trung Tá Đông có liên hệ rõ rệt với Pháp còn các sĩ quan tham dự như Phan Trọng Chinh, Phạm Văn Liễu, Nguyễn Mạnh Tường , nghĩa là từ Thiếu Tá đến Đại Úy, Trung Úy đều xuất thân từ các gia đình đảng phái Quốc Gia không Việt Nam Quốc Dân Đảng thì cũng Đại Việt Quốc Dân Đảng và họ được công nhận là trong sạch chỉ huy nổi tiếng và có thực tài. Như trường hợp Đại Úy Nguyễn Mạnh Tường khi còn là trung úy đã nổi tiếng là một vị Trưởng Phòng 3 giỏi của Sư Đoàn 5 (dưới thời Tôn Thất Đính) tốt nghiệp Đại học Quân Sự đứng số I – và cũng vì đứng số I nên được lưu lại Bộ Tổng Tham Mưu và theo luôn phe đảo chánh 11-11-1960 có tính chất Quốc Gia thuần túy, trẻ và nhiệt thành.
Tuy vậy, dù là con người quốc gia đứng lên đảo chánh lật đổ đương đại hợp pháp khi thất bại phải ngồi tù ra tòa là lẽ đương nhiên. Vì giản dị “được làm vua thua làm giặc”
Những người chủ chốt trong nội vụ thì đã cao chạy xa bay như Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông, Hoàng Cơ Thụy… còn lại được coi là tòng phạm. Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Nhu, BS Tuyến cũng không tỏ vẻ “tức giận đến độ phải ngược đãi trả thù” những quân nhân tòng phạm này. Đó cũng là một trong những lý do không đưa vụ 11-11-1960 ra xét ngay. Ông Nhu cũng như giới cộng sự viên của ông và Tổng Thống Diệm đều lưu ý đến Vương Văn Đông còn Hoàng Cơ Thụy cũng không phải là kẻ chủ mưu chính yếu – Bác sĩ Phan Quan Đán thì rõ ràng chạy theo cơ hội.
Tại sao Vương Văn Đông lại là chủ chốt trong vụ 11-11-1960 và có dính dáng đến hoạt động của Phòng phản gián Pháp không? Vương Văn Đông là một trung tá trẻ của quân đội lúc bấy giờ, thông minh và có khả năng nhưng bản chất cũng là một thứ ”con tây”. Trước năm 1960, giới cao cấp tại Dinh Độc Lập không ai để ý đến Đông. Năm 1954 Đông đứng về phe Hinh, và hoạt động cho biệt đội Con Ó thuộc phòng VI của Trung Tá Trần Đình Lan.
Giữa hai vị trung tá trẻ Vương Văn Đông và Nguyễn Triệu Hồng thì Trung Tá Hồng có tư cách hơn có học vấn cao và là một sĩ quan thuộc loại cự phách có thực tài (Trung Tá Hồng bị bắn ngay tại Tổng Nha Cảnh Sát đêm 11-11-1960) còn Đông nhiều tham vọng lại bị chi phối bởi nếp sống “Tây” của gia đình nhà vợ.
Năm 1957, Trung Tá Đông được gởi qua Mỹ tu nghiệp. Ngay thời gian này Đông đã tỏ ra bất mãn. Trong suốt khóa huấn luyện viên Mỹ hỏi câu gì Đông chỉ đáp vỏn vẹn “I don’t know”. Khi về nước, Trung Tá Đông được bổ nhậm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 7 (do Trung Tá Huỳnh Văn Cao làm Tư Lệnh). Vốn thông minh, có tài lại kiêu ngạo, Đông rất coi thường Trung Tá Huỳnh Văn Cao. Đông đã công khai nói lên điều này. Thực ra thì Đông kiêu ngạo cũng có lý, ông ta vốn là một sĩ quan tác chiến xuất sắc, đeo lon thiếu tá năm 23, 24 tuổi… Đáng lý ra thì không nên để Đông làm Tư Lệnh Phó dưới quyền Huỳnh Văn Cao vì sự cách biệt về khả năng giữa hai người quá rõ rệt. Đông bất mãn với chế độ Ngô Đình Diệm cũng có nhiều nguyên nhân nhưng hợp tình hợp lý và đó cũng là nguyên nhân đẩy ông ta vào thế chống đối. Khi Trung Tá Đông làm Tư Lệnh Phó thì Thiếu Tá giả định Phan Minh Thọ làm Tham Mưu trưởng nhưng thuộc quyền của Sư Đoàn lại nằm trong tay Phan Minh Thọ.
Nguyên nhân lớn nhất là vì Đông bị chèn ép quá nhiều, có tài (theo Đông nghĩ) lại bị xử ức, Đông vẫn cho rằng mình vượt Trung Tá Huỳnh Văn Cao về thâm niên cấp bậc cũng như khả năng chỉ huy và tác chiến.
Đã thế, Sư Đoàn 7 lại bị thao túng bởi viên Tham Mưu trưởng. Dạo ấy, các sĩ quan ở Sư Đoàn 7 ai cũng ngán. Đây cũng là một kinh nghiệm đáng cho người lãnh đạo Quốc Gia bất cứ thời nào cũng phải suy ngẫm. Người lãnh đạo quốc gia thì ở xa nhưng cán bộ thì lại ở gần quần chúng. Quần chúng sẽ nhận định và phê phán người lãnh đạo quốc gia qua đám cán bộ. Trong quân đội cũng vậy, sĩ quan không biết rõ tấm lòng Tổng Thống Diệm như thế nào, không rõ con người ông Cẩn ra sao nhưng họ luôn luôn nhận định và phê phán qua những con người ruột của chế độ. Không hiểu Phan Minh Thọ có phải là con ruột của chế độ hay không nhưng khi về làm Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 7 thì ông ta có thể gọi là quá hăng hái phục vụ cho Đảng (hệ phái ông Cẩn). Phàm những sĩ quan nào ghé thăm Vương Văn Đông đều có người theo dõi và báo cáo với Thượng Cấp. Thiếu Tá Thọ lại quá “hăng hái” phục vụ chế độ bằng cách công khai “tấn công” Tư Lệnh Phó Vương Văn Đông. Trong văn phòng Tư Lệnh Phó của Đông có một bộ salon rất đẹp, nhưng cũng bị lấy đi. Bàn giấy của Đông có 2 cái ghế để tiếp khách cũng lấy đi hết… mỗi lần khách tới, một là đứng hai là ngồi trên mặt bàn. Do đó, sự bất mãn của Đông mỗi ngày càng lớn. Đông thù ghét Đảng Cần Lao mà thực sự là thù ghét ông Cẩn qua con người Thọ. Cái nguy cơ làm tan vỡ chế độ bắt nguồn từ những sự lạm dụng của cán bộ hạng trung như vậy. Một chế độ muốn được lòng dân, muốn giảm thiểu được bất mãn trong quần chúng thì người lãnh đạo tối cao có tài đức chưa đủ mà còn phải có đôi mắt sáng nhìn rõ từ những lạm dụng của những thuộc cấp vì thuộc cấp vẫn nhân danh chế độ trong một khu vực nào đó.
Không ai nói rằng Thiếu Tá Thọ thế này thế nọ nhưng quả thực chế độ Ngô Đình Diệm có nhiều cán bộ trung cấp như Thọ tuy có hăng say hết lòng phục vụ nhưng hành xử nhiều điều quá đáng ấu trĩ lại bảo hoàng hơn Vua. Tệ hại hơn nữa là dùng cái uy danh của đàn anh để tạo uy thế cho mình. Dù là một người bình thường không thuộc một khuynh hướng nào chống đối chính quyền nhưng gặp cảnh ngộ lại chèn ép và xử ức như Vương Văn Đông cũng dễ dàng bất mãn và sẵn sàng chống đối chính quyền nếu có dịp thuận tiện. Vương Văn Đông bị đổi về trường Đại Học Quân Sự tuy không còn bị xử ức và chèn ép như ở Sư Đoàn 7, song Đông lại có nhiều cơ hội tốt kết giao với một số sĩ quan trẻ.
VỤ ÁN 11-11-1960
Cuộc đảo chánh 11-11-1960 không phải chỉ có nhóm Vương Văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng nhưng còn vô số sĩ quan được coi là nòng cốt của chế độ cũng trở cờ đón gió hoặc án binh bất động chờ thời cơ. Ngay Sư Đoàn 7 đóng tại Biên Hòa, kế cận thủ đô từng phút đầu vẫn giữ thái độ “wait and see”. Sau đó, Trung Đoàn 12 nóng ruột mới kéo quân trực chỉ thủ đô. Sư Đoàn 22 mà vị Tư Lệnh được coi là “người trong nhà” của chế độ cũng do dự. Đúng hơn là hoàn toàn im lặng chờ lệnh thượng cấp. Ngay tại thủ đô, nhiều tướng tá cũng im lặng chờ đợi cơ hội.
Cuộc đảo chánh bất thành, nhiều người lanh chân lẹ miệng lại được tưởng thưởng trái lại một số sĩ quan lại gặp tai bay vạ gió hết sức oan ức. Trường hợp Trung Tá Nguyễn Khương, chỉ huy trưởng Truyền Tin, suốt ngày 11-đến sáng 12 trốn thật kỹ nhưng khi quân Đại Tá Trần Thiện Khiêm, tiến vào thủ đô thì bấy giờ Trung Tá Khương mới lộ diện rồi lại còn lập công bằng cách cho một tiểu đoàn truyền tin ra tay chống đảo chánh vào ngày 13 (nghĩa là tàn cuộc rồi chính ông lại chận xe của Đại Tướng Lê Văn Tỵ không cho vào Dinh gặp Tổng Thống Diệm). Thực ra thì cả ngày 11 Trung Tá Khương cho người móc nối với phe đảo chánh nhưng phe đảo chánh bất thành ông trở thành người chống đảo chánh hăng hái nhất. (nhiều tướng tá khác tương tự như Trung Tá Khương). Trong đó nhiều người bi tố cáo rất oan ức. Chẳng hạn như Thiếu Tá Liên Đoàn Trưởng Truyền Tin thuộc Bộ Tư Lệnh Hành Quân.
Lính trong Liên Đoàn của Thiếu Tá chỉ vì tình đồng đội tiếp tế cơm nước cho một số binh sĩ Nhảy Dù sau này Thiếu Tá Nguyễn Đình Tài bị tố cáo theo phe đảo chánh rồi mất chức, bị câu lưu và bị ra khỏi ngành Truyền tin. Một đại úy chỉ huy trưởng một đơn vị biệt lập tại ven đô, không có tội gì cả chỉ có tội “vô tình xóa khẩu hiệu suy tôn Ngô Tổng Thống” nhưng cũng bị phạt 40 ngày trọng cấm. Số là thế này, bức tường ở doanh trại kẻ khẩu hiệu “Ngô Tổng Thống muôn năm” lâu ngày bị nước mưa làm ố nhòe trông rất lem nhem, viên Đại Úy sốt sắng ra lệnh cho thượng sĩ thường vụ phải cho lính quét lại tường vôi và kẻ lại khẩu hiệu cho đàng hoàng. Nhưng không may tường quét vôi trắng xóa, xóa nhòa khẩu hiệu vào ngày 10 thì đúng ngày 11 xảy ra đảo chánh. Ấy vậy mà Bộ Tổng Tham Mưu vẫn phổ biến một văn thư đi khắp các đơn vị về việc phạt viên đại úy này 40 ngày trọng cấm với lý do ở trên.
Nhiều đơn vị một số sĩ quan bị câu lưu bị điều tra hoặc thuyên chuyển chỉ vì phát ngôn bừa bãi trong ngày 11-11-1960.
Thực tế thì cuộc đảo chánh 60 như đã viết trên phát sinh do tinh thần quốc gia cực đoan cùng với tâm trạng nổi loạn của một số sĩ quan trẻ.
Về phương diện hành quân đảo chánh thì phải nói là hoàn hảo nhưng ai cũng nhận rằng, cuộc đảo chánh đó bị một số chánh khách hoạt đầu đón gió và làm mất đi rất nhiều ý nghĩa Quốc Gia chân chính và tiềm ẩn khát vọng cách mạng thật sự của một số sĩ quan trẻ tham dự với tất cả hăng say. Số chánh khách này gọi là chánh khách cũng chưa được đúng lắm, đứng đầu là Hoàng Cơ Thụy theo sau là Phan Quang Đán.
Trở lại trường hợp Trung Tá Nguyễn Khương, ông này được coi là Vua của ngành truyền tin, bao sĩ quan ngành này đã khổ vì ông Khương qua những báo cáo xuyên tạc bậy bạ. Trung Tá khương với nhãn hiệu “Cần lao ông Cậu” dễ xưng hùng xưng bá. Tư cách của Nguyễn Khương đã tỏ rõ khi Nguyễn Khương qua Mỹ du học cùng với một số sĩ quan cao cấp trong đó có Đại Tá Đỗ Cao Trí. Thay vì lo học, Trung Tá Khương lại chỉ lo theo dõi đồng đội rồi viết riêng thư về báo cáo với Cậu Cẩn, chẳng hạn như Nguyễn Khương viết thư tố cáo ông Cậu là Đỗ Cao Trí sang Mỹ chẳng lo học chỉ lo chơi bời (trong khi đó thì Đại Tá Đỗ Cao Trí cũng viết thư tố Nguyễn Khương học hành bê bối)
Trọn ngày 11 và ngày 12, Trung Tá Khương trốn lủi lại tìm cách móc nối với Đại Tá Thi tối 12, Nguyễn Khương mặc thường phục lên Catinat quan sát tình hình. Lúc ấy, phe chính phủ đã thắng thế, Trung Tá Khương cấp tốc về Bộ Tư Lệnh huy động lực lượng truyền tin rồi trao cho Đại Úy Đỗ Như Luận “thống xuất” tiến vào Bộ Tổng Tham Mưu (sáng 13) để gọi là giải vây nhưng kỳ thực lúc ấy Bộ Tổng Tham Mưu không còn một lực lượng Nhảy Dù nào… Nhưng Trung Tá Khương vẫn coi như ta là người hùng chống đảo chánh rồi lại “hộ tống” Đại Tướng Lê Văn Tỵ vào Dinh lập công với Tổng Thống.
Sau đó, Trung Tá Khương lại lập báo cáo xuyên tạc Thiếu Tá Nguyễn Đình Tài, Chỉ Huy trưởng trung tâm Truyền Tin thuộc Bộ Tư Lệnh hành quân. Trong bản báo cáo Trung Tá Khương cho rằng Thiếu Tá Tài đã tiếp tay với phe đảo chánh rằng khi quân đảo chánh chiếm được Đài Phát Thanh thì Thiếu Tá Tài có ý định ngăn cản không cho Trung Tá Khương xử dụng chiếc máy phát tin cao xuất để thay Đài Phát Thanh.
Dinh Tổng Thống từ phút đầu ngày 11 đã trao cho Khương với mật lệnh liên lạc với Trung Tá Huỳnh Văn Cao nhưng Trung Tá Khương đã không chuyển mật lệnh này.
Hơn tháng sau thì Dinh Tổng Thống cũng rõ lòng dạ của Khương và bị thất sủng từ đó.
Trong 2 ngày 11 và 12, một số các nhân vật tai to mặt lớn đều lẩn mặt nhưng trong ngày 13 đồng loạt xuất hiện, tranh nhau nhảy vào ban chống đảo chánh để lập công rồi cố làm sao diện kiến được Tổng Thống để ông Cụ thấy mặt. Một người có công thực sự là Võ Văn Hải. Trong việc tiếp xúc dàn xếp với phe đảo chánh, đều một tay ông Hải lo toan, thế nhưng sau đó lại bị nghi kỵ, bị các phe nhóm dèm pha là Võ Văn Hải đi nước đôi. Ngày 11 và 12, BS Tuyến cùng một số cộng sự viên lập “bộ chỉ huy” tại nhà Huỳnh Thành Vị.
Tại đây, BS Tuyến trực tiếp liên lạc với Đại Úy Bằng cùng với một số đơn vị lớn có Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Theo BS Tuyến thì người có công lớn trong vụ 11-11-1960 trước hết phải kể đến bà Ngô Đình Nhu và sau nữa là Đại Úy Bằng, một tay kiên trì chống đỡ phe đảo chánh mà lực lượng không hơn một Đại Đội.
Nhưng Tổng Thống Diệm lại bị huyền hoặc bởi một số người cơ hội chuyên môn “bốc” thành ra người có công thì không được lưu ý hoặc bị phe phái khác dèm pha, có tội khi khéo chạy tội thì trở thành người có công. Đám người này tìm mọi cách để làm đẹp lòng ông Tổng Thống và để ông Tổng Thống yên trí rằng: “Dân chúng luôn luôn trung thành và ủng hộ Tổng Thống”. Kỳ thực lúc ấy dân chúng đã bắt đầu bất mãn trước những lạm dụng và hống hách của những nhân vật được coi là lương đống của chế độ. Đáng lý ra nhân cơ hội này, Tổng Thống Diệm phải làm một cuộc xét lại những sai lầm của chế độ và nếu cần phải thanh trừng những thành phần bất lực, tham nhũng, nịnh bợ nhưng Tổng Thống Diệm không làm như thế… Rồi kế tiếp đến vụ bỏ bom Dinh Độc Lập ngày 27-2-1962 chế độ Ngô Đình Diệm bắt đầu sa sút trông thấy, nội bộ càng thêm phân hóa. Vụ 11-11-1960 thì một số phe phái dèm pha ông Võ Văn Hải, vụ ngày 27-2 ông Tổng Thống cũng nghi ngờ BS Tuyến. Vụ Phật Gáio năm 63, kể từ tháng 5, Tổng Thống Diệm lại không tin ông Cẩn nốt. Chế độ đang lúc phân hóa, đầy mâu thuẫn nội bộ lại phải đương đầu với áp lực Mỹ và vụ tranh đấu của Phật Giáo. Với một tình hình rối ren như vậy đáng lý phải xếp vụ án 11-11-1960 lại nhưng không hiểu sao, Tổng Thống Diệm lại cho đem xử. Cái chết của Nhất Linh là một bất lợi lớn lao cho vụ án.
Chánh án Huỳnh Hiệp Thành được chỉ định làm chánh thẩm. Trung Tá Quân Pháp Lê Nguyên Phu ngồi ghế Ủy viên chánh phủ. Sau 1963, Trung Tá Lê Nguyên Phu bị công kích dữ dội, bị kết án là tay sai của chính quyền Ngô Đình Diệm đã hạ nhục xỉ vả chánh khách quốc gia. Điều công kích có đúng hay không chỉ là phản ứng nhất thời do tự ái bồng bột của người bị kết án.
Theo giới Thẩm Phán thuộc Nha Quân Pháp (trước 63) và giới Hiến Binh thì Trung Tá Lê Nguyên Phu người thay thế Trung Tá Nguyễn Quang Sanh chỉ huy lực lượng Hiến Binh, ông Phu có sự ngay thẳng, có lương tâm của một thẩm phán tốt nhưng giao tế hơi vụng về, nói năng không được khéo léo. Đó cũng là một điểm thất bại của một ủy viên chánh phủ, của một tòa án vốn được là công cụ của chính quyền. Giám đốc Nha Quân Pháp lúc ấy là Đại Tá Nguyễn Văn Mầu, Trung Tá Phu nắm quyền Giám Đốc phân Nha Hiến Binh kiêm uỷ viên chính phủ Tòa Án Quân Sự đặc biệt. Trung Tá Lê Nguyên Phu được Phủ Tổng Thống chỉ thị đem gấp vụ 11-11-60 ra xét xử. Một vụ án thật rắc rối. Khi nhận chỉ thị, Trung Tá Quân Pháp Lê Nguyên Phu đã thấy rõ những khó khăn này.
Trên mặt pháp lý, đưa vụ 11-11-1960 ra xét xử tại Tòa Án Quân Sự là đúng vì thủ phạm cũng như các tòng phạm đều là quân nhân tại ngũ và chứng cớ phạm pháp rất hiển nhiên (xử dụng quân lực để lật đổ chế độ đương nhiệm và hợp pháp). Lý thì như vậy nhưng tình lại khác. Nhưng nhiệm vụ của thẩm phán chỉ dựa theo lý dù cái lý của chính quyền nhưng vẫn là cái lý của luật pháp hiện hành. Trung Tá Lê Nguyên Phu được Tổng Thống Diệm chỉ thị đến tìm BS Tuyến để tìm hiểu rõ đầu đuôi nội vụ (lúc ấy BS Tuyến không còn làm việc ở Sở Nghiên Cứu Chính Trị nữa). Với tình hình đang sôi động như vậy từ Bộ Trưởng Thuần đến BS Tuyến đều cảm thấy nan giải nhưng ai là người có thể cản ngăn khi Tổng Thống Diệm đã quyết định như vậy?
Vấn đề khó khăn nhất đối với Trung Tá Phu là Tổng Thống Diệm chỉ định: “anh phải lấy cho tôi 2 cái án tử hình”. Ông chỉ thị vắn tắt vậy thôi mà không nói kết tội cho ai tử hình. Trước mặt Tổng Thống Diệm ngay Phó TT, Bộ Trưởng, tướng lãnh còn vâng lời tuân theo răm rắp huống chi một Trung Tá, ông Lê Nguyên Phu đem vấn đề này hội ý với BS Trần Kim Tuyến. Vụ án làm cho ông Phu muốn điên đầu. Ai ở vào địa vị của ông Phu cũng không thể làm sao hơn! Trung Tá Phu nghiên cứu sơ đồ mấy ngày… chỉ thị của Phủ Tổng Thống là phải làm sao lấy 2 án tử hình để làm gương. Có nhẽ Tổng Thống Diệm coi đó là cách biểu dương uy quyền và sự cứng rắn của chính quyền? Trung Tá Phu lo lắng nói với BS Tuyến: “Theo lương tâm thẩm phán, sau khi cứu xét kỹ hồ sơ thì thấy không ai trong vụ án đáng lãnh án tử hình cả”. Nhưng lệnh của Tổng Thống bây giờ làm thế nào. Trước sự khó khăn nan giải này, BS Tuyến và Trung Tá Phu đã đi đến một giải pháp: “tìm trong số những người đào tẩu như Vương Văn Đông, Nguyễn Chánh Thi, Hoàng Cơ Thụy để buộc tội thật nặng qui hết trách nhiệm cho những người này và làm thế nào để tòa án kết án tử hình những người tại đào, có như thế mới có thể cứu nổi những người đang bị giam giữ “. Trung Tá Phu coi giải pháp này như một lối thoát tốt đẹp nhất cho chính ông ở tư thế một ủy viên chính phủ (cái nghề chỉ có buộc tội ít khi xin tòa dễ dãi cho các bị can). Ông Phu cho đó là một lối thoát tốt đẹp bởi vì ông vẫn lo lắng, tâm sự với BS Tuyến “Nếu không khéo Tòa lại xử một bị can nào tử hình thì tôi chẳng biết phải làm thế nào, lương tâm thật không cho phép.” Thường tình các vị chánh án của Tòa án Quân Sự đặc biệt hay mặt trận có “thói quen” xét xử bị can theo lời buộc tội của ủy viên chính phủ, khi một ủy viên chính phủ đại diện thật sự cho hành pháp mà lại là Hành pháp trước năm 1963. Nếu “cảm thấy” ủy viên chính phủ muốn bị can X bị can Y bao nhiêu năm tù, tử hình hay khổ sai thì thông thường các vị chánh án cũng sẽ tuyên xử như vậy một là lấy lòng Tổng Thống hai là quá nhát sợ hoặc muốn tránh sự lôi thôi phiều nhiễu.
Khi đem vụ 11-11-1960 ra xử, Trung Tá Phu cũng như BS Tuyến và Bộ Trưởng Thuần đều phập phồng lo sợ “mật lệnh 2 án tử hình”. Biết đâu trong lúc cao hứng hoặc thiếu quân bình hoặc quá “sốt sắng”với chế độ vị chánh thẩm lại xử Phan Trọng Trinh hoặc cụ Phan Khắc Sửu hay một vài bị can nào khác tử hình thì lúc ấy sẽ ra sao? Trong tình hình đầy biến động và bất thường như trạng thái tâm lý chính trị bất thường năm 1963 biết đâu vì một lý do bất thường thì lúc đó quả thực lương tâm của một người bình thường cũng không thể yên ổn được. Do đó, sau nhiều lần hội ý cùng nhau, Trung Tá Phu đã đi đến một giải pháp là trong lời buộc tội sẽ đánh mạnh vào điểm là các bị can đều tòng phạm, a dua.
Tóm tắt lại, trước khi đưa ra Tòa xét xử vụ 11-11-1960, tòa án Quân Sự đã có sự bố trí cẩn thận để làm thế nào giảm thiểu hình phạt đối với tòng phạm và lấy án tử hình dành cho các chánh phạm tại đào. Tổng Thống Diệm không ra chỉ thị xử tử hình đích danh ai cho nên đó là điều dễ dàng cho ủy viên chánh phủ có thể nhắm vào Nguyễn Chánh Thi, Hoàng Cơ Thụy, Vương Văn Đông.
Thành phần can phạm hết sức phức tạp tuy nói là những nhân sĩ quốc gia nhưng danh xưng tốt đẹp này chỉ nên dành cho vài ba người. Ngoài những quân nhân can phạm có thể thuần nhất còn các nhân sĩ chỉ là sự kết hợp tạm thời từ năm bè bảy mối, tạm đồng ý với nhau trong một giờ, một phút để cùng đứng lên lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Quả thực thì phần nhiều các vị nhân sĩ này là hữu danh vô thực, không có lực lượng hậu thuẫn đáng kể mà uy tín các vị đó đối với quốc dân cũng chỉ là sự “nghe nói như vậy”. Nhưng vụ án đã gây nên dư luận sôi nổi tại quốc nội cũng như quốc ngoại.
Vụ án đem ra xét trong một hoàn cảnh hoàn toàn bất lợi cho chính quyền. Nói là hoàn toàn vì trong một cuộc đấu tranh chính trị thì pháp luật chỉ có thể là một khí giới giúp cho chính quyền có cái để nhân danh áp đảo đối phương.
Đằng này, pháp luật được xử dụng không hợp với thời gian và không gian nên không được hiệu lực, giảm thiểu được khí thế đấu tranh của phe chống chính phủ, trái lại, vụ án 11-11-1960 lại trở thành khí giới của phe chống chính phủ.
Như trên đã viết về vụ Hòa Thượng Quảng Đức tự thiêu tương đối đã lắng dịu, tình hình tại Huế ít nhất đã ổn định dù là bề mặt. Phía Ủy Ban Liên Phái đang khủng hoảng vì nội bộ bắt đầu phân hóa. Trong khi đi tìm phương thức đấu tranh mới làm thế nào hiệu quả hơn, có tác dụng mạnh hơn là 5 nguyện vọng đề ra. Vì sự kiếm tìm phương thức mới, các vị lãnh đạo trong Ủy Ban Liên Phái bắt đầu xung đột.
Xung đột giữa phe ôn hòa và phe quyết liệt. Phe quyết liệt từ ngày 20-6 trở đi cũng bắt đầu hoang mang… Vì khó lòng có thể tập trung được Phật tử và khó lòng tạo được sự sôi động.
Đối với thị hiếu quần chúng lại luôn thay đổi. Mục tiêu tranh đấu nào bất luận chánh đáng và lý tưởng cũng phải đánh trúng được thị hiếu đám đông. Khi thu hút được thị hiếu của đám đông thì mới dễ dàng sách động được họ và đưa họ vào con đường hăng say tranh đấu cho mục tiêu của người lãnh đạo.
Vụ án 11-11-1960 đem ra xét xử dân chúng lại được dịp theo dõi vì hẳn nhiên là vụ án đó vẫn còn vang dội trong lòng dân. Dân chúng ở đâu và thời nào cũng có khuynh hướng bênh kẻ yếu và ngưỡng mộ người chiến bại và không cần tìm hiểu gì khác hơn.
Thất bại lớn của chính quyền Ngô Đình Diệm là đem vụ này ra xét xử. Một lần nữa chính quyền lại đổ cả một thùng dầu vào ngọn lửa tranh đấu của Phật Giáo mà ngọn lửa đang leo lét… ngay các nhà lãnh đạo Phật giáo cũng đang hoang mang không biết làm thế nào cho ngọn lửa bùng to.
Dù Phật giáo đã có một danh sách tự thiêu nhưng vẫn chưa thể áp dụng. Bởi vì dù ai tự thiêu đi nữa thì cũng không thể nào tạo được xúc động như vụ tự thiêu của Hòa Thượng Quảng Đức. Bỗng nhiên, vụ án 11-11-1960 cùng với cái chết của Nhất Linh đã cung hiến cho Ủy Ban Liên Phái một cơ hội tốt nhất.
KHI HUYỀN THOẠI NHƯ CÁT GẶP MƯA
Đem vụ 11-11-1960 ra xử là một lỗi lầm chiến thuật vì không thuận tình thuận cảnh. Nhân vụ án, chính quyền Ngô Đình Diệm muốn biểu dương uy quyền, muốn nói thẳng với người Mỹ là áp lực của họ không thể làm suy giảm sự cương quyết của Tổng Thống Diệm. Nói được như thế là bởi vì vụ án 11-11-1960 và cái chết của Nhất Linh, giới chức Mỹ đã áp lực mạnh mẽ buộc TT Diệm xếp lại. Nhưng áp lực của Mỹ từ phía Harriman, Hilsman, Fistel chỉ là tạo cơ hội để xen lấn vào nội tình Việt Nam chứ thật tình cũng không có một chút thành ý nào đối với những phần tử quốc gia. Vụ án kết thúc thì giới chức Mỹ lại có thêm một cơ hội tố cáo chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp các phần tử quốc gia đối lập. Tóm lại vụ án 11-11-60, không đem lại kết quả như TT Diệm mong muốn. Trái lại từ phía Phật Giáo tranh đấu đến Mỹ và đảng phái đối lập kể cả Cộng Sản lại có thêm một lợi điểm to lớn để tấn công chính quyền. Giả dụ trong tình thế lúc ấy TT Diệm một là xếp lại nội vụ nếu không thì ân xá để gọi là tạo sự đoàn kết hào đồng (dù chỉ là chiến thuật).
Như vậy các phía đối lập đã mất hẳn một mục tiêu tốt.
Bỏ ra ngoài các quân nhân trẻ, một số “nhân sĩ trong vụ 11-11-60″ được đưa ra tòa là một chiến thắng. Tự nhiên chính quyền lại góp công tạo cho họ được thêm rất nhiều thanh thế trong quần chúng mà đáng lý ra đa số họ không thể nào tạo được nổi thanh thế như vậy.
Cụ Phan Khắc Sửu cũng như nhà văn Nhất Linh thì uy tín đối với quốc dân là một điều hiển nhiên rõ rệt song những Hoàng Cơ Thụy, Hoàng Hồ, Phan Quang Đán… chỉ là uy tín vay mượn hết sức bấp bênh. Những người này nếu chính quyền cao tay thì nên khoan hồng cho họ là phải vì thực tình nếu không có quân nhân tham gia vụ đảo chánh thì riêng họ cũng chẳng thể làm nên trò trống gì cả. Trái lại, chính sự tham dự của những Hoàng Cơ Thụy, Phan Quang Đán chỉ làm lem nhem nhiệt huyết của các quân nhân trẻ trong vụ đảo chánh.
Nội một chuyện Đài Phát Thanh bỏ trống trong hai ngày 11 và 12 đã nói lên sự bất tài của một số tự mệnh danh là chính khách. Ngoài bản tuyên cáo HĐ QNCM và bản tuyên bố của BS Phan Quang Đán thì Đài Phát Thanh không còn mục gì hơn là bản nhạc quân hành. Chính những lời tuyên bố của Bác Sĩ Phan Quang Đán trên Đài Phát Thanh đã làm hầu hết dân chúng thất vọng. Rồi một mặt Đài Phát Thanh kêu gọi dân chúng biểu tình sau đó lại phổ biến thông cáo cấm dân chúng ra ngoài đường. Cứ xem như thế cũng đủ hiểu tài năng của mấy chính khách được coi là nòng cốt trong nội vụ.
Trong phiên tòa xử ngày 5-7-1963 kéo dài đến ngày 12 (với 19 quân nhân và 34 nhân sĩ) qua lời buộc tội, Trung Tá Lê Nguyên Phu cho rằng các nhân sĩ này chỉ “a dua chạy theo đón gió”.
Khi Nhất Linh nằm yên trong lòng đất thì vụ án 11-11-60 cũng hoàn tất. Hai án tử hình mà TT Diệm đòi hỏi vẫn chỉ dành riêng cho cáo chính phạm còn tại đào. Cháy nhà mới ra mặt chuột… Câu phương ngôn này quả không sai khi nhận định về bản chất thực của một số nhân sĩ trong vụ án, các quân nhân trẻ tuổi như Phan Trọng Chinh, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Vũ, Từ Thức… đã chứng tỏ được phong độ đường hoàng và khí phách khi ở trong tù cũng như ra trước tòa. Ngược lại một số nhân sĩ tự nhận có thành tích cách mạng thì quả là yếu kém về đường nhân cách. Nhất cử nhất động của mấy vị này đều không qua khỏi con mắt của mấy tay an ninh chìm rồi cuối cùng cũng lọt vào tai vợ chồng ông Nhu và TT Diệm. Chẳng hạn như bác sĩ nọ đã từ chối cả một chút dầu cù là khi một người đồng thuyền đồng hội bất thần bị đau yếu giữa cảnh giam cầm. Cũng vị BS trên đã quá cẩn thận dùng dây treo cá khô ngay phía trên đầu mình để “canh phòng”. Rồi nhiều vị gọi là nhân sĩ nhưng vào tù đã không thương nhau lại còn tị hiềm gành ghét nhau kể cả gây lộn thưa kiện nhau đến Phòng chuyên môn (cơ quan an ninh của Khám Chí Hòa). Riêng BS họ Phan thì được coi là một can phạm chính trị rất khôn khéo mềm dẻo. Khi bị đày ra Côn Sơn ông đã không quản công viết thư về đất liền xin Tổng Thống Diệm khoan hồng. BS họ Phan một mực kêu oan và minh xác ông luôn luôn khâm phục Ngô Tổng Thống (rất tiếc những lá thư trên lại không được gửi về đất liền nên không đến tay Tổng Thống Ngô Đình Diệm và chỉ có Thiếu Tăng Tử, tự Sao (Tỉnh trưởng Côn Sơn) là người được đọc đầy đủ những lá thư đó. Như vậy thì ông Ngô Đình Nhu tỏ vẻ khinh thị coi thường một số “chính khách” cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng năm 1963, ông Nhu đánh giá sai lạc thực chất của lớp người trẻ lúc bấy giờ. Chính lớp người này mới là thực lực đáng kể và trở thành lực lượng nóng cốt đứng lên chống chế độ Ngô Đình Diệm. Như trên đã viết ngày 13-7 ngày đưa đám Nhất Linh chính là ngày mở đầu cho sự tham dự tích cực của giới sinh viên học sinh. Ủy Ban Liên Phái lại có thêm một đồng minh vô cùng bén nhọn và mạnh mẽ.
Trước khi trình bày rõ về vụ xử án này, xin nói qua cuộc tranh đấu Phật giáo kể từ ngày 19-6 (ngày đưa đám tang Hòa Thượng Quảng Đức) cho đến ngày 7-7 tức ngày Nhất Linh quyên sinh.
Sau đám tang Cố Hoà Thượng Quảng Đức thì cơ hồ phía Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo như đã cạn đề tài để kích thích sinh viên học sinh và quần chúng Phật tử.
Tình thế cứ kéo dài như vậy thì Ủy Ban Liên Phái khó lòng tạo thêm được cơ duyên vận động mạnh cuộc đấu tranh. Nhưng cái chết của Nhất Linh cũng như vụ án 11-11-1960 bỗng dưng chính quyền lại cung cấp cho Phật giáo thêm một số chất liệu để làm ngọn lửa đấu tranh càng cao hơn mặc dầu đang lúc gần tàn (sự thực là như vậy) Trong những ngày 7, 8, 9 Ủy Ban Liên Phái lại vô cùng bận rộn để vận động sinh viên học sinh tham dự đám tang của Nhất Linh và nhất là hướng dư luận Phật tử tập trung về vụ án. Ủy Ban Liên Phái không còn công khai bênh vực vụ án nhưng vẫn phổ biến tài liệu để lên án chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp những người Quốc Gia chống Cộng.
Ngày 7, 8, 9 tháng 7 nỗ lực của Ủy Ban Liên Phái đều đổ dồn vào đám tang nhà văn Nhất Linh, phía Ngô Đình Nhu chỉ thị cho cơ quan an ninh phải làm mọi cách canh chừng quan tài của Nhất Linh vì có tin tình báo cho biết, phía Ủy Ban Liên Phái đang tìm cách thuyết phục gia đình Nhất Linh đem quan tài về quàn tại chùa Xá Lợi.
Nếu quan tài Nhất Linh đem về đấy thì lại có một vụ Quảng Đức thứ hai nghĩa là phía Phật giáo tranh đấu sẽ lợi dụng cơ hội này để sách động Phật tử và rồi sẽ có thuyết pháp liên miên. Hậu quả sẽ không biết thế nào. Nhất Linh nằm xuống, Tòa quân sự vẫn tiếp tục xử vụ 11-11-1960 nhưng vụ đấu trí giữa chính quyền và Ủy Ban Liên Phái càng thêm quyết liệt.
Ủy Ban Liên Phái lại kéo thêm được một số đống minh.
Từ khi ký Bản Thông Cáo Chung đến ngày Nhất Linh tạ thế thì Ủy Ban Liên Phái trải qua một cuộc khủng hoảng nội bộ (dĩ nhiên bên ngoài không ai biết được). Thượng Tọa Thiện Minh tuy bên ngoài nói mạnh miệng nhưng vẫn liên lạc với phía chính quyền thực lòng muốn hòa giải. Phía ngoài Trung ông Cẩn lại biết dùng tiền (như ông vẫn thường dùng) để lung lạc mấy vị chủ chốt (văn phòng ông Cẩn có ghi nhận ông Cẩn có trao cho ông Luyện một lần 300,000 đồng để đem đến cho mấy Thày gọi là cúng đường tam bảo). Riêng Thượng Tọa Trí Quang được coi là người không nhúng tay vô vụ tiền bạc này nhưng nhờ tiền bạc và nhờ “một số hồ sơ mật” về đời tư cá nhân mà Thượng Tọa Thiện Minh một cách âm thầm đã ngã hẳn về phía chính quyền. Trái lại phía Thượng Tọa Tâm Châu cương quyết giữ vững lập trường. Thực ra Thượng Tọa Tâm Châu lúc ấy vẫn được coi là người ôn hòa mềm dẻo nhưng sau Thượng Tọa có một số chính khách am tường về kỹ thuật tranh đấu cho rằng, thời cơ đã đến thì phải làm tới ngay. Càng do dự chính quyền càng dễ mua chuộc và phân hóa hàng ngũ tranh đấu. Phía tu sĩ người hăng hái nhất phải kể đến Đại Đức Đại Nghiệp nắm vững được dư luận Mỹ, biết thế nào là Mỹ cũng lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm.
Điện thoại của chùa Xá Lợi bị kiểm soát cẩn thận thế nhưng Ủy Ban Liên Phái vẫn được những nguồn tin nhanh nhất sớm nhất. Một là do báo chí ngoại quốc. Hai là do mấy bà vợ của các viên chức “đi nước đôi” một mặt ủng hộ chính quyền một mặt ủng hộ Ủy Ban Liên Phái qua trục giao liên vợ con. Nhưng sau đám tang Cố Hoà Thượng Quảng Đức – các viên chức bắt đầu chồn chân và rút về ốc đảo “nhiệt liệt ủng hộ chế độ” Đó là trường hợp ông Vũ Văn Mẫu. Công an Cảnh Sát và mật vụ bắt đầu làm quen với kỹ thuật tranh đấu của Ủy Ban Liên Phái và ít nhất có hàng loạt nhân viên vào nằm vùng. Nhờ vậy gần nửa tháng chính quyền nắm lại thế chủ động.
Cái chết đột ngột của nhà văn Nhất Linh đã đưa chính quyền vào thế bị động trong khi Ủy Ban Liên Phái lại lấy được thế chủ động.
Ngày 13-7 là ngày đưa đám tang Nhất Linh từ bệnh viện Đồn Đất qua chùa Xá Lợi rồi trở về nơi yên nghỉ ngàn thu tại nghĩa trang Bắc Việt. Nhưng đó cũng là ngày đầy sôi nổi và bận rộn cho các cơ quan an ninh chìm nổi của Đô Thành và Tổng Nha CSCA.
Ngày 13-7 cũng là ngày đánh dấu một khúc quanh lớn trong cuộc tranh đấu của Phật Giáo. Hàng ngàn sinh viên thuộc nhiều phân khoa Đại Học đã tự động đến chùa Xá Lợi đón linh cữu Nhất Linh. Rất nhiều sinh viên đeo băng đen. Đám tang của Hòa Thượng Quảng Đức cũng không đông đảo như đám tang Nhất Linh và hầu hết đều thuộc giới Phật tử.
Đám tang Nhất Linh thì lại khác, qui tụ nhiều thành phần Công Giáo cũng có, Phật giáo cũng có. Tuy nhiên phía Phật giáo, một số lãnh tụ trẻ lại khéo lanh lợi biến đám tang này thành mầu sắc tôn giáo. Cuối cùng nhất Linh được an táng cùng với đảng kỳ của VNQDĐ
Từ đây giới sinh viên Sài Gòn mới thực sự dấn mình vào cuộc tranh đấu… Một số sinh viên trẻ thuộc thành phần đảng phái cũng muốn lợi dụng chiêu bài Phật giáo với hy vọng tiến xa hơn, mạnh hơn nghĩa là đạt một cuộc cách mạng ấy dù họ chưa biết cuộc cách mạng như thế nào. Phía Phật giáo nếu chỉ có một lực lượng Phật tử cũng chưa đủ nên đã tìm mọi cách lôi cuốn sinh viên học sinh
KHI MỸ VÀ CỘNG SẢN QUYẾT TÂM NHẢY VÀO CUỘC
Biến cố dồn dập và bao trùm… Tổng Thống Diệm càng ngày càng thúc thủ trong những mâu thuẫn nội bộ mâu thuẫn Mỹ Việt… mâu thuẫn anh em. Kể từ trung tuần tháng 7 năm 1963 thì người Mỹ cũng như về phía Cộng Sản đã thực sự nhẩy vào cuộc cố bám vào biến cố, giành phần chủ động biến cố. Trong khi Phật Tử cũng như Sinh viên Học sinh hăng say quyết tranh đấu cho mục tiêu cao đẹp của tập thể mình thì trong lòng Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo đã nứt rạn… chính sự nứt rạn đó đã nói lên sự sự xâm nhập của những thế lực ngoại lai (CS cũng như Mỹ).
Cuộc tranh đấu của Phật Giáo lại bắt đầu bừng dậy vào ngày 17-7. Trước đó, Ủy Ban Liên Phái liên tiếp nhận được những nguồn tin cho biết là chính quyền sẽ áp dụng biện pháp mạnh.
Đồng thời cũng vào thời gian này, dư luận lại đồn đại sắp đảo chánh. Phía Ủy Ban Liên Phái đã khai thác triệt để nguồn tin đảo chánh. Hơn nữa Ủy Ban Liên Phái lại nắm được nhược điểm của chính quyền là sự phân hóa và mâu thuẫn trầm trọng ngay từ phía anh em TT Diệm. Ngoài Trung, ông Cẩn chỉ còn là hư vị… Tại Sài Gòn quyền bính nằm trọng trong tay ông Nhu đang chuyển hướng để tìm thế liên minh mới. Một sự liên minh theo ông Nhu trước hết phải đặt trên căn bản một quốc gia chậm tiến đứng giữa hai thế lực Cộng Sản-Tư Bản. Từ bao lâu rồi, theo BS Tuyến, ông Nhu vẫn mơ ước thực hiện được một “triết thuyết chính trị” trong khung cảnh một quốc gia chậm tiến đứng trong khối thứ ba. Ước mơ này của ông Nhu chính nó lại trở thành khí giới tiêu diệt ông và hẳn người Mỹ không thể nào để cho ông thực hiện được ước mộng đó.
Đầu tháng 7 ông Nhu đã có những cuộc tiếp xúc bán chính thức với đại diện Bắc Việt qua trung gian của Ủy Hội Quốc Tế và Giáo Sư Bửu Hội trở thành một nhân vật quan trọng bày một nhịp cầu mới giữa Pháp và Việt. Đại Sứ Goburdhun cho biết về sự tiếp xúc với Hà Nội, ông Nhu vẫn còn dè dặt. Ông Nhu chưa tính đến chuyện hòa giải với miền Bắc ngay trong lúc này (1963) nhưng ông Nhu thành thật muốn hai bên mở cuộc tiếp xúc để dọn đường cho cuộc ngưng bắn và thiết lập quan hệ bình thường giữa hai miền Nam Bắc. Đại Sứ Ấn nhắc đi nhắc lại nhiều lần với Cha François (MEP):
”Ông cố vấn Ngô Đình Nhu là một người đặc biệt. Trong cuộc tiếp xúc với nhà cầm quyền Bắc Việt họ vẫn coi ông Nhu là một lãnh tụ nguy hiểm”. Đại Sứ Goburdhun nhắc đi nhắc lại:
“Bắc Việt coi ông Nhu như một típ lãnh tụ đặc biệt và nguy hiểm vì ông Nhu hiểu rõ chiến lược chiến thuật của họ”
Nhân chuyến trở lại thăm Việt Nam, Cha Françoiss xin gặp riêng ông Nhu để nhờ cậy một vài việc riêng đây cũng là dịp mà Cha Françoiss ghé qua thăm Đại Sứ Ấn tại Ủy Hội Quốc Tế. Lần gặp gỡ này, Cha Françoiss thấy ông Nhu già đi rất nhiều, mệt mỏi và chán nản. Ông Nhu hỏi thăm cha Françoiss:
-Cha thấy dư luận của Pháp và La Mã như thế nào đối với Việt Nam?
Cha François dè dặt:
– Có nhiều dư luận trái ngược nhưng nói chung thì báo chí Tây phương tỏ ra phẫn nộ… không thuận lợi cho chính phủ Việt Nam… Hiện ông cố vấn đã có biện pháp như thế nào với vụ tranh đấu của Phật Giáo?
Ngô Đình Nhu yên lặng một lúc lâu. Ông bẻ đôi điếu thuốc Job hút một nửa cho vào ngăn kéo bàn, ông Nhu “tặc lưỡi”:
– Chính phủ đã xử rất ôn hòa, bây giờ thì không có chuyện nhượng bộ nữa.
Cha François lo ngại:
– Ông cố vấn nói như vậy có nghĩa chính phủ sẽ xử dụng biện pháp mạnh để dẹp cho yên?
Ông Nhu đáp:
– Thưa Cha không còn lựa chọn nào khác hơn.
Cha François:
-Nếu như vậy sẽ vô cùng nguy hiểm. Đây là vấn đề tế nhị tôi nghĩ chính phủ Việt Nam cần kiên nhẫn hơn nữa.
Ông Nhu lắc đầu:
– Chỉ còn có hai cách lựa chọn: một là tình trạng rối loạn kéo dài và chính phủ sẽ đổ một nửa, phải vãn hồi an ninh trật tự và chính phủ sẽ chịu một số thiệt thòi đổ vỡ.
Ông Nhu cho Cha François biết:
– Trong một tháng nay, Việt Cộng xâm nhập ồ ạt vào các đô thị để ngụy trang dưới chiêu bài tranh đấu của Phật giáo. Nếu chánh phủ không áp dụng biện pháp mạnh thì một buổi sáng nào đó Cha sẽ thấy Saigon tràn ngập cờ đỏ sao vàng.
Cha François hỏi ông Nhu:
– Như vậy có nghĩa là cuộc tranh đấu của Phật Giáo đã bị cán bộ CS tràn ngập và khống chế?
Ông Nhu đáp:
– Đúng, cơ quan an ninh đã thâu lượm được rất nhiều bằng chứng!.
Cha François dè dặt:
– Thưa ông Cố vấn, tôi vẫn nghĩ là các Thượng Tọa đều là những nhà tu hành thuần túy. Như ông Mai Thọ Truyền tôi có dịp gặp ông nhiều lần… ông làm sao có thể để cho Cộng Sản mua chuộc được?
Ông Nhu nói như phân trần:
-Thưa cha, tôi cũng nghĩ như cha vậy nhưng phương thức tranh đấu của họ là những phương thức học được của Cộng Sản. Dù các Nhà Sư không phải là Cộng Sản nhưng cán bộ hạ tầng của họ là CS cũng không thể tha thứ được. Một là chính phủ phải thua CS một cách nhục nhã hai là ra tay đối phó. Tôi đã cân nhắc chính phủ phải đối phó vì cuộc rối loạn càng kéo dài càng bất lợi nguy cơ càng tới gần…
Qua giọng nói cương quyết của ông Nhu Cha François thấy rằng không thể ai ngăn cản ông được và ông ấy đã lựa chọn phương thức “được ăn cả ngã về không”.
Ông Nhu nhấn mạnh với Cha François:
– Đứng sau phong trào Phật giáo không phải chỉ có Cộng Sản mà còn người bạn đồng minh của chính phủ Việt Nam nữa. Họ muốn xử dụng phong trào này để làm áp lực và “sa tăng” với chúng tôi.
Cha François nhìn ông Nhu dò xét rồi mỉm cười:
– Nước Pháp trước đây cũng chịu một áp lực như vậy và bị là “sa tăng” quá nhiều nhưng theo tôi, người Mỹ cũng cần Việt Nam chứ?
Ông Nhu đáp:
– Dĩ nhiên là như vậy nhưng tất nhiên Việt Nam cần họ nhiều hơn…”
Ông Nhu bỏ lửng cấu nói rít một hơi thuốc rồi đứng lên tìm một tập hồ sơ trao cho Cha François:
– Cha có thể xem qua một số hình ảnh này, cha sẽ thấy… chính phủ Việt Nam khổ tâm biết bao nhiêu…
Ông Nhu chỉ vào người Mỹ mặc áo sơ mi cụt tay:
– Ông ta chỉ là nhân viên thường của cơ quan USAID nhưng là viên chức lớn của CIA.
Ông Nhu lại chỉ tay vào người Mỹ thứ hai:
– Ông ta là một Mục Sư trước đây hoạt động truyền giáo tại Darlac, nhưng trở về Mỹ cách đây 4 năm và mới qua Việt Nam với tư cách phóng viên…
Ông Nhu chỉ vào người Việt Nam gương mặt rất trẻ khôi ngô tuấn tú đội mũ “phớt” mặc âu phục, cổ hở… ông Nhu hỏi: “Cha biết ai đây không?” Cha François chưa nhận ra ai thì ông Nhu nhún vai: “ông ta là một Nhà Sư hiện đang ở chùa Xá Lợi”.
Cha François nhìn tấm hình có hai người Mỹ và người Việt (được ông Nhu gọi là Nhà Sư) Cha chỉ mỉm cười, không nói vì không biết phải nói như thế nào. Cha François quen biết ông Nhu từ lâu nên hiểu rõ con người ông tuy thông minh xuất chúng nhưng cố chấp và nhiều thiên kiến, Cha François lại có rất nhiều liên hệ và thân thiện với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết cũng như Hòa Thượng Quảng Độ và BS Lê Đình Thám. Cha François tìm cách nói khéo với ông Nhu là cho đến lúc này (1963) Cha vẫn tin rằng các Nhà Sư không thể là Cộng Sản cũng như không thể để CS lôi kéo. Ông Nhu tỏ vẻ khó chịu, nói:
– Cộng sản giống như con quỷ có trăm đầu, một thứ Mécamorphose… CS len lỏi vào khắp nơi ngay trong giới Công giáo.
Có lẽ không thuyết phục được Cha François về lập trường cứng rắn của mình đối với Phật giáo nên ông Nhu lảng qua chuyện khác, lại chuyện người Mỹ. Ông Nhu nói với giọng gay gắt:
– Chúng tôi có nhiều kinh nghiệm với ngoại bang… Người Mỹ dù mạnh thế nào cũng không thể qua mắt nổi chính phủ này. Tôi trả lời thẳng cho người Mỹ rõ, họ muốn rút hết cố vấn cứ việc rút, cả viện trợ Mỹ chúng tôi cũng không cần, Mỹ có thể cúp viện trợ ngay lúc này Việt Nam vẫn đủ sức tự túc để chống Cộng.
Cha François nghe giọng của ông Nhu như một người phẫn uất sống chìm đắm trong thế giới ảo tưởng. Cha François hỏi:
– Ông nghĩ thế nào về việc đề cử ông Cabot Logde làm Đại Sứ?
Suy nghĩ một lát, ông Nhu đáp:
– Cũng thế thôi nhưng Tổng Thống không có thiện cảm với ông ta vì ông ta có một quá khứ bất chánh.
Cha François hỏi:
– Hình như Đức Hồng Y Spellman có khuyến cáo Tổng Thống nên mở rộng chính phủ và chấp nhận đối lập”?
Ông Nhu gật đầu:
– Điều đó có, Tổng Thống cũng đang cứu xét nhưng với một nước chậm tiến như Việt Nam không thể áp dụng chế độ tự do dân chủ như Tây phương… Như Cha đã am tường lịch sử Việt Nam, đất nước chúng tôi truyền thống dân chủ từ cả ngàn năm trước, dân chủ từ hạ tầng, từ xã ấp. Ở thượng tầng phải làm thế nào giữ được uy quyền tối thượng của quốc gia… Thưa Cha, Ấp Chiến Lược chính là con đường xây dựng cơ sở dân chủ từ hạ tầng…
Dịp này ông Nhu tâm sự với Cha François:
– Mỹ có thói quen bắt buộc các đồng minh phải rập khuôn như họ… nhưng ở Mỹ khác, ở Á Châu này khác… trong một quốc gia hòa bình thì lại hoàn toàn khác với một quốc gia đang có chiến tranh. TT Kennedy khuyến cáo Việt Nam cải tổ cơ chế dân chủ có nghĩa là phỏng cơ chế dân chủ của Mỹ. Nhưng Cha nghĩ coi, ông cha chúng tôi đã có nhiều kinh nghiệm về nạn chia rẽ, nạn kỳ thị phe phái… nếu ở Việt Nam áp dụng dân chủ như ở Mỹ thì chỉ đi đến tình trạng hỗn loạn. Mà Việt Nam thì không thể chấp nhận được tình trạng hỗn loạn.
Cha François hỏi:
– Hình như TT Kennedy muốn miền Nam có sự canh tân Hiến Pháp?
Ông Nhu mỉm cười đáp:
– Không chính thức khuyến cáo như vậy nhưng Hoa Thịnh Đốn gián tiếp muốn chúng tôi làm như vậy.
Cha François:
– Tôi có dịp gặp một vài Thượng Nghị Sĩ Mỹ như Nghị Sĩ Morse.
Ông Nhu “à” một tiếng lớn và ngắt lời:
– Tôi biết ông Morse, hắn ta chỉ là tên cao bồi say khói súng và chỉ là tên dô kề, nhưng phe hắn ta khá mạnh
Ông Nhu hỏi Cha François:
– Cha thấy người Mỹ họ nhận định về chế độ này như thế nào?
“ Cha François đáp:
– Hầu hết người Mỹ đứng đắn đều không muốn Việt Nam bị xáo trộn nhưng họ muốn một chế độ cởi mở.
Ông Nhu gật đầu:
– Vâng họ đang lên án chúng tôi là độc tài cũng như trước đây họ đã lên án Tưởng Giới Thạch và Lý Thừa Vãn… Người Mỹ đã lầm giữa chế độ độc tài với sự bảo vệ uy quyền quốc gia tối thượng.
Ông Nhu ngừng một lúc lại tiếp tục phân trần:
– Thưa, chẳng hạn họ bảo chúng tôi là độc tài vì cho rằng không có Tối Cao Pháp Viện nên Hành Pháp điều khiển Tư Pháp. Họ cũng kết án chúng tôi là độc tài vì cho rằng quốc hội chỉ có một viện và do quốc hội không kiểm soát được Hành Pháp.
Nhân dịp gặp ông Nhu, Cha François có phàn nàn về việc chính phủ Việt Nam trục xuất BS Erie Wuff một y khoa BS Đức giảng dạy tại trường đại học Y Khoa Huế. Ông Nhu lặng thinh một lúc lâu và đáp:
– Ông ta là một điệp viên.
Cha François ngạc nhiên buộc miệng: “
– Ông ta là một điệp viên?.
Ông Nhu lạnh lùng gật đầu. Một lát sau ông Nhu đáp:
– Wuff là một Agent double của CIA… Trước khi trục xuất ông ta, chính phủ Việt Nam đã có bằng cớ.
Gặp ông Nhu, Cha François càng tỏ ra thất vọng về tình hình đen tối tại miền Nam. Cuộc bất hòa giữa Việt Mỹ mỗi ngày thêm sâu xa và gần như không còn cách gì hàn gắn cho được. Cuộc tranh đấu Phật Giáo mỗi ngày một lan rộng, càng tăng cường độ. Cha François đi đến đâu cũng nghe tin đồn đảo chánh. Sau cuộc biểu tình lớn của Phật giáo ngày 17-7, ông Nhu đã đổi thái độ và quyết một lần ăn thua… ông đang dự trù một kế hoạch lớn.
Trong khi đó TT Diệm vẫn chủ trương ôn hòa và tìm mọi cách hòa giải với Phật Giáo. Một số tướng lãnh đều hết lòng chạy theo ông Nhu đáng kể là Tướng Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính và Huỳnh Văn Cao, Trần Tử Oai. TT Diệm buông tay trước biến chuyển của thời cuộc. Khi đọc thấy báo chí Mỹ trước kia ca tụng ông bây giờ nhân vụ Phật giáo lại công kích ông rất thậm tệ, TT Diệm coi đó như sự lật lọng trắng trợn của chính phủ Mỹ. Sự thật với chế độ, báo chí như Mỹ chính phủ Mỹ nhiều khi trở thành nạn nhân và bị báo chí dẫn dắt chi phối.
Thái độ ôn hòa và hòa giải của TT Diệm được ghi nhận vào ngày 24-7 khi TT Diệm quyết định cách chức Trung Tá Chiêu- Giám Đốc Nha Thanh Tra Dân Vệ khi ông này tổ chức một số Thương Phế Binh và Quả Phụ biểu tình trước chùa Xá Lợi sáng ngày 23-7.
Chiều thứ bảy 22-7 Tổng Thống Diệm lên Đà Lạt nghỉ cuối tuần. Theo sĩ quan tùy viên Lê Công Hoàn trong 5 năm phục vụ bên cạnh Tổng Thống Diệm, gần như không mấy khi Tổng Thống Diệm đi nghỉ xả hơi cuối tuần. Nhưng sau cái chết của nhà văn Nhất Linh và những biến chuyển dồn dập của tình hình, Tổng Thống Diệm tuần nào cũng lên Đà Lạt đi săn, cỡi ngựa. Trước khi đi Đà Lạt, Tổng Thống Diệm gọi ông Bộ Trưởng Thuần vào văn phòng chỉ thị một số điều. Ông Tổng Thống nói:
– Ông và cụ Phó xem xét còn điều chi chưa giải quyết thì giải quyết cho nó xong.
Khi Tổng Thống Diệm lên máy bay đi Đà Lạt, các sĩ quan trong Lữ Đoàn LBPVPTT thấy Thiếu Tướng Tôn Thất Đính vào thành Cộng Hòa hội họp riêng với Trung Tá khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn và Trung Tá Chiêu Giám Đốc Nha Thanh Tra Dân Vệ. Tướng Đính lúc ấy coi như người ruột thịt của chế độ và cột trụ của Quân Ủy đảng Cần Lao. Cuộc hội họp này có mục đích nhằm đối phó với phe tranh đấu của Phật giáo, với sự hoàn toàn tán đồng và thúc đẩy của vị Tư Lệnh Quân Đoàn III. Trung Tá Chiêu thực hiện một cuộc biểu tình của Thương Phế Binh và quả phụ 8 giờ ngày 23-7. Đại Đức Đại Nghiệp đã được mật báo là có một số thương phế binh kéo đến “ăn vạ” tại chùa Xá Lợi. Ủy Ban Liên Phái cấp tốc bố trí đề phòng. Cũng vào chính giờ đó Sư bà Diệu Huệ, thân mẫu của Giáo Sư Bửu Hội mở cuộc họp báo với sự hiện diện của Sư bà Diệu Không (cả hai vị Sư Bà đều có con cháu trong hàng ngũ Tướng Tá và nhân vật lương đống của chế độ Ngô Đình Diệm). Cuộc họp báo có rất đông ký giả ngoại quốc. Dịp này Sư Bà Diệu Huệ tuyên bố một câu nảy lửa là “sẽ tự thiêu noi gương Hoàng Thượng Quảng Đức để cúng đường Phật Pháp để phản đối chế động Ngô Đình Diệm”. Chính giai đoạn này Giáo Sư Bửu Hội sẽ là sứ giả của chính quyền đi “giải độc” tại một số quốc gia Phi Châu và ông cũng có nhiệm vụ tiếp xúc với Uthant, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc. Ủy Ban Liên Phái đưa Sư bà Diệu Huệ vào cuộc tranh đấu và ở hàng đầu quả là cao kiến và đó là một đòn sâu hiểm khiến chính quyền Ngô Đình Diệm không thể không bối rối.
Đúng 9 giờ, hơn 100 thương phế binh và quả phụ trương biểu ngữ kéo đến trước cổng chùa Xá Lợi. Trước ban tổ chức dùng máy phát thanh đặt trên xe lam chõ vào chùa đọc lá thư được gọi là huyết lệ thư với nội dung kêu van các vị tu hành nên lo Phật sự kinh kệ và “đừng mắc mưu Cộng sản thông đồng với ngoại bang cõng rắn cắn gà nhà”. Lá thư trên được đọc đi đọc lại nhiều lần, trong chùa các Nhà Sư và Phật tử vẫn tiếp tục tụng kinh, gõ mõ, thỉnh chuông. 11 giờ thì số thương phế binh náo động, ban tổ chức đòi gặp đại diện Ủy Ban Liên Phái để trao huyết lệ thư.
Không được trả lời, họ đòi mở cổng chùa sau tự động nhảy qua hàng rào tràn vào bên trong tung truyền đơn và các bức hình về chiến sĩ.
Xét về kỹ thuật chống phe tranh đấu thì đây là một “cú” hơi thấp quá lộ liễu.
Vụ biểu tình của Thương Phế Binh và Quả Phụ tạo cho Ủy Ban Liên Phái có cơ hội gây xì-căng-đan chính trị. Đại Đức Đại Nghiệp thảo văn thư lên án vụ biểu tình này và cho rằng chính quyền không thành tín.
Qua văn thư gửi cho TT Diệm, Ủy Ban Liên Phái lại qui lỗi cho phía Tổng Thống mà kỳ thực TT Diệm không hề hay biết gì cả.
Đoàn tùy tùng của Tổng Thống trở về Saigon vào chiều chủ nhật.
Theo thông lệ mỗi lần đi và về đều có các nhân viên chính phủ và tướng lĩnh ra tận phi trường đón đưa. Hôm ấy Phó TT Thơ tỏ ý buồn phiền không ít về sự biểu tình của Thương Phế binh vì nó không tạo được thông cảm cho việc hòa giải mà chỉ tăng thêm hố sâu chia rẽ giữa chính quyền với Phật giáo.
Khi TT Diệm trên phi cơ bước xuống thì Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần chạy lại báo cáo ngay vụ biểu tình của Thương Phế Binh và Quả Phụ. Ông Tổng Thống mặt đỏ như gấc, đập chiếc ba tông xuống sân năm bảy lần và nói như quát:
– Đức nào làm như rứa? Ai biểu chúng nó làm như rứa?
Bộ Trưởng Thuần thưa lại: “Làm như thế này con không biết phải trả lời ra sao với Ủy Ban Liên Phái”.
Ông Tổng Thống nổi giận hầm hầm đi vào phòng khách danh dự. Ông không nói một lời.
Kinh nghiệm nhiều năm phục vụ bên Tổng Thống Diệm đã báo cho sĩ quan tùy viên Lê Công Hoàn biết, “khốn khổ với ông cụ rồi đây”. Thường thường sự nóng giận như vậy ông Tổng Thống đều đổ vào đầu 6 tùy viên thân cận. Từ phi trường về Dinh Gia Long ông Tổng Thống không nói một câu. Tại phi trường ông ra lệnh cho Bộ Trưởng Thuần:
– Cách chức nó ngay, bỏ tù!
Sự thực, lỗi không phải do nơi Trung Tá Chiêu. Cuộc biểu tình kể trên được sự đồng ý của thượng cấp là Thiếu tướng Tư Lệnh vùng III nhưng cuối cùng Trung Tá Chiêu lãnh đủ. Ông Tổng Thống quyết định cách chức Trung Tá Chiêu và phạt 40 ngày trọng cấm. Hôm sau Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi Tư Lệnh Lữ Đoàn PVPTT vào phòng Tổng Thống hết lời năn nỉ Tổng Thống khoan hồng cho Trung Tá Chiêu. Ông Khôi trình bày đại ý đây chỉ là do sự quá hăng say phục vụ của Chiêu và ông Chiêu cũng là anh em trong nhà nên xin Tổng Thống miễn cho Chiêu khỏi bị phạt quá nặng như vậy và cũng xin Tổng Thống đừng cách chức Chiêu. Lúc đầu TT Diệm có vẻ xiêu lòng nhưng sau đó ông giữ quyết định cũ. Trung Tá Chiêu đươc coi như nạn nhân của tình thần phục vụ quá hăng say.
Hơn nữa, vụ này không chỉ một mình Chiêu mà do ý kiến và sự tán đồng của Thiếu Tướng Đính. Trước đó, Thiếu Tướng Đính cũng vào Dinh xin cho Chiêu nhưng Tổng Thống nhất định không tha thứ.
Sự tranh đấu của Phật Giáo vẫn âm ỉ kéo dài đến ngày 20-8 tức ngày Cảnh Sát Chiến Đấu được lệnh bố ráp các Chùa Saigon và trên toàn quốc,
Sau vụ biểu tình lớn ngày 17-7, Ủy Ban Liên Phái lại bắt đầu vận động cho một cuộc biểu tình khác. Phía Phật giáo cố duy trì tính chất bất bạo động trong các cuộc xuống đường. Phía chính quyền trước sau chỉ ở thế thụ động và đề phòng. Tuy giới chức an ninh đã tung một màng lưới lớn vào các trung tâm tranh đấu của Phật giáo nhưng màng lưới này chỉ đạt được kết quả thu lượm các tin tức trong lòng ủy ban tranh đấu của Phật giáo. Nếu nói đơn thuần về kỹ thuật tranh đấu thì kỹ thuật của Ủy Ban Liên Phái có nhiều điểm mới lạ với những phát kiến đáng kể dù rằng kỹ thuật đó đã đạt tới 80% kỹ thuật mà Cộng Sản thường xử dụng. Chiến dịch rỉ tai tung tin giật gân thả từng trái ballon đảo chánh nhất là tạo dư luận xấu xa về ông bà Nhu thì có thể nói phía tranh đấu đã được kết quả tuyệt hảo. Nếu đứng trên mặt chánh quyền mà phê phán thì chánh quyền Ngô Đình Diệm lúc ấy quả là quá yếu luôn luôn bị động và chỉ có chống đỡ vì không nắm được qui luật tranh đấu của Phật giáo để tìm phương thức đảo ngược lại qui luật bất bạo động. Giả như một tay “cao thủ” sẽ tìm mọi cách công phá từ bên trong để làm sao bất bạo động, thành bạo động.
Việc TT Ngô Đình Diệm cách chức Trung Tá Chiêu tuy chứng tỏ sự thành tín của ông đối với Ủy Ban Liên Phái nhưng tạo nên sự bất mãn trong tinh thần phục vụ của cấp bộ thừa hành. Trong khi đó Ủy Ban Liên Phái vẫn không thừa nhận sự thành tín này và cho rằng, TT Diệm chỉ phạt Trung Tá Chiêu một cách giả vờ và có cớ tuyên truyền rằng chính quyền vô tư nghiêm trị phần tử vô kỷ luật. Ông Ngô Đình Nhu là người thứ nhất đã bất mãn và nói với cộng sự viên:
– Ông cụ làm như vậy thì từ nay trở đi còn đứa nào dám hăng hái. Chiêu nó có tội gì mà phạt nó như vậy.
Vụ phạt và cách chức Trung Tá Chiêu ông Nhu cho rằng: “Ông cụ chỉ làm cho họ (Ủy Ban Liên Phái) mỗi ngày càng thêm quá khích”.
Ngày 30-7, Ủy Ban Liên Phái tổ chức lễ chung thất Cố Hoà Thượng Quảng Đức với hàng ngàn Phật tử tham dự. Điều đáng kể là trong số Phật tử lại có rất nhiều vợ con của các nhân vật cao cấp trong chánh quyền. Số người này trở thành những cán bộ hoạt động đắc lực trong việc thông tin, tạo dư luận tác động tinh thần chồng và cha của họ. Trong buổi lễ này dĩ nhiên lại có chuyện thuyết pháp. Ủy Ban Liên Phái đưa ra một bản tuyên ngôn mới xác định lập trường đấu tranh bất bạo động cho những muc tiêu thuần túy tôn giáo… Kiểm điểm lại cuộc vận động nói trên đến nay mới chỉ được giải quyết trên giấy tờ (thông cáo chung) và bằng lời nói (hiệu triệu của Tổng Thống)
Trước đó Đại Sứ Nolting tuyên bố với phái viên của hãng thống tấn UPI là “Ở Việt Nam không có vấn đề kỳ thị tôn giáo và ngược đãi Phật giáo đồ”. Phản ứng lại, ngày 1-8 Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết gửi điện văn qua TT Kennedy với nội dung: “Thay măt toàn thể Phật giáo đồ miền Nam Việt Nam chúng tôi cực lực phản đối cùng Tổng Thống lời tuyên bố của Đại Sứ Nolting qua hãng thống tấn UPI… Chúng tôi nghĩ rằng dân chúng Hoa Kỳ phải thấu rõ nỗi phẫn uất của Phật giáo đồ đến 80% dân số. Lời tuyên bố của ông Nolting không phù hợp với sự thật luôn cả thiện chí và sự hiểu biết của người Hoa Kỳ “.
Kể từ cuối tháng 7 cơ quan an ninh Phủ Tổng Thống cũng như Cảnh Sát Đặc Biệt đã nắm được kế hoạch tự thiêu trường kỳ của Phật giáo tranh đấu, nhưng tài thánh cũng không có gì ngăn chặn nổi. Ngoài ra cơ quan an ninh còn nắm được kế hoạch của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam nhằm lũng đoạn cuộc tranh đấu của Phật giáo trong đó có công tác tuyển mộ một số thanh niên cuồng nhiệt ở miền quê cho học tập rồi trở về xâm nhâp tại các đô thị, cải trang nhà sư và họ sẽ sẵn sàng tự thiêu vì Đạo Pháp.
Cuộc tranh đấu của Phật Giáo lên như diều gặp gió và mỗi ngày càng bị tràn ngập bởi những “yếu tố tác ngoại”. Các vị trong Ủy Ban Liên Phái lúc ấy tựa hồ như diều mà quần chúng Phật giáo lại là cơn gió mạnh. Lúc đầu khi cuộc tranh đấu vừa bộc phát thì các ngài vừa là diều vừa là giây diều và nắm được đầu giây. Từ tháng 8 năm 1963, phong trào tranh đấu càng lan mạnh, vì thế các vị lãnh đạo càng lên cao thì lúc ấy các vị chỉ ngồi thu gọn trên cánh diều và diều gặp gió lên cao mãi các vị không còn nắm đầu giây nữa và lúc đó chính những yếu tố ngoại tại “nắm đầu giây với một chiếc kéo để áp dụng đúng phương lược”. Muốn được quần chúng tuân theo thì phải tuân theo kỷ luật quần chúng. Ở đây phải được hiểu là một nhóm người nào đó có kỹ thuật và kỷ luật tranh đấu và nắm được quần chúng trong một danh nghĩa thuận lợi. Câu: .“Muốn được quần chúng tuân theo thì phải tuân theo kỷ luật quần chúng” tuy là sáo ngữ và nặng phần “đảng tính” trong một tập thể đấu tranh trường kỳ và mai phục trường kỳ, nhưng câu nói trên có ý nghĩa như thế này: Nếu Tổng Thống không theo “chúng tôi” thì chúng tôi cắt giây… Đã lên như diều gặp gió hẳn tâm lý con người không ai dám can đảm để cho kẻ cầm đầu giây đưa nhát kéo cắt ngang giây! Đó cũng là cái thế của nhiều vị lãnh tụ Phật Giáo trong bối cảnh sôi động vào tháng 7 và tháng 8 năm 1963.
Ngày 4-8 tại Phan Thiết, trước dinh tỉnh trưởng Bình Thuận, Đại Đức Thích Nguyên Hương nổi lửa tự thiêu vào đúng lúc tan sở.
Đại Đức Thích Nguyên Hương được 23 tuổi thọ. Mấy giờ sau, TT Diệm được báo cáo nội vụ. Ông bỏ ăn cơm chiều và 1 giờ đêm lại thơ thẩn xuống vườn đi tản bộ ngắm trăng sao. Đó là điểm thành công của Ủy Ban Liên Phái vì gây xúc động lớn ngay trong đầu não của chế độ. Hôm sau Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo lại phản đối chính quyền địa phương cướp xác Đại Đức Nguyên Hương. Bình Thuận là một trong mấy tỉnh miền Trung vốn bình lặng từ bao năm và đây cũng là nơi 30 năm về trước Tổng Thống ngồi ghế Tri Phủ Hòa Đa rồi Tuần Vũ Bình Thuận, nơi mà TT Diệm tự hào có nhiều Tổng Lý trung thành với ông. Không khí tranh đấu ở Bình Thuận lại bốc bừng và dâng cao. Trọng tâm của Tỉnh Giáo Hội ở đây là nhằm vào việc Tỉnh Trưởng Trung Tá Nguyễn Quốc Hoàng một giáo dân mà thân phụ ông (cụ Án Mẫu) vốn là bạn đồng liêu của TT Diệm.
Một số cán bộ của Tỉnh Giáo Hội vận động dư luận tấn công thẳng vào cá nhân Thiên Chúa Giáo của Trung Tá Nguyễn Quốc Hoàng. Dư luận ấy nhắm vào sự kỳ thị tôn giáo hơn là mục tiêu của Ủy Ban Liên Phái. Một số ty trưởng vì tự ái tôn giáo thay vì đứng về phía chánh quyền theo vị trí của họ thì họ lại âm thầm tham dự cuộc tranh đấu. Chính quyền địa phương này phải hứng chịu trận đánh nội công ngoại kích mặc dầu ông Tỉnh Trưởng là tín đồ Thiên Chúa Giáo nên bị mặc cảm tôn giáo từ lúc khởi đầu cuộc tranh đấu và chống tranh đấu thì cả phía chính quyền Bình Thuận và Tỉnh Giáo Hội Phật Giáo đều có lý. Đại Đức Nguyên Hương tự thiêu dù tinh thần hy sinh này xúc động bao nhiêu thì cũng chỉ có tác dụng trong một phạm vi và một khối lượng nào đó vậy cho nên Tỉnh Giáo Hội phải lấy được Giác Linh, vì có giác linh mới có đối tượng qui tụ đám đông… rồi từ lễ cầu siêu thuyết pháp đến ngày an táng sẽ là một khoảng thời lượng vô giá để vận động và khích động đám đông. Không lấy được xác Đại Đức thì kỹ thuật tranh đấu cho một chiến thuật đã trở nên vô hiệu. Mà chính quyền (nếu ai ở thế chính quyền cũng đều như vậy) phải có bổn phận đạt được sự vô hiệu hóa mọi kỹ thuật tranh đấu của phe đối nghịch
TỪ CHIẾN DỊCH TỰ THIÊU
đến KẾ HOẠCH NƯỚC LŨ
Qua tháng 8, tự thiêu được trở thành một chiến dịch. Nhà cầm quyền đành bó tay trước chiến dịch này .
Tổng Nha Cảnh Sát cũng như cơ quan tình báo Phủ Tổng Thống nhận được báo cáo đầy đủ về chiến dịch tự thiêu. Thượng Tọa Trí Quang được coi là tác giả của chiến thuật tuyệt diệu này. Mỗi địa phương (miền Trung) theo sự sắp xếp và bố trí đã có sẵn một số ứng viên tự thiêu cùng với kỹ thuật làm thế nào gây được xúc động trong quần chúng và tạo được sự hoang mang trong Quân Đội nhất là giới quân nhân Phật tử thuần thành. Hầu hết các ứng viên tự thiêu đều dưới 25 tuổi và thời gian vào chùa đi tu không quá 5 năm.
Sau vụ tự thiêu của Đại Đức Nguyên Hương, ngày 13-8 Đại Đức Thanh Tuệ, 18 tuổi lại tự thiêu tại Huế. Đại Đức Thanh Tuệ mới vào chùa tu được 3 năm, tháng 6-1963 Đại Đức đậu bằng Trung Học Phổ Thông, Đại Đức Thanh Tuệ tự thiêu lúc 2 giờ đêm tại cửa Tam Quan chùa. Vụ tự thiêu của Đại Đức Thanh Tuệ vào lúc 2 giờ đêm đã nêu lên một dấu hỏi lớn – một nghi vấn về phía chính quyền. Theo báo cáo của cơ quan an ninh Thừa Thiên thì Đại Đức Tuệ là một nhà dư trẻ, hiền hòa rất chăm học. Nhưng Đại Đức Thanh Tuệ đã bị một nhóm người thúc đẩy tự thiêu. Đó chỉ là báo cáo của an ninh. Tất nhiêu nhiều lắm thì ta chỉ có thể tin được 40% – Bản báo cáo nêu rõ bà vãi Cao Thị Dõ, trên 60 tuổi sống tại chùa đã lâu năm và chuyên lo về việc nấu ăn, dọn dẹp. Bà Dõ không biết gì về việc Đại Đức Thanh Tuệ tự thiêu. Khoảng nửa đêm, bà thấy có một số người lạ mặt vào chùa và cùng hội họp với Đại Đức Thanh Tuệ rất lâu. Bà không để ý gì cả… Khoảng 2 giờ sáng, bà nghe tiếng la hét thất thanh ghê rợn… bà hoảng hồn chạy ra hiên thì lúc đó ngọn lửa đã bùng lên ở cửa Tam Quan.
Ngày 15-8-1963 ni cô Diệu Quang lại tự thiêu trước trụ sở chi hội Phật Học Ninh Hòa. Ni cô Diệu Quang nguyên quán tại Huế. Tuy tu ở chùa Vạn Thạnh nhưng Ni Cô lại không tự thiêu ngay tại Nha Thành mà bất thần đáp xe đò ra tận Ninh Hòa và nổi lửa tự thiêu tại đây.
Trước đó ít ngày cơ quan tình báo Phủ Tổng Thống phát giác có một nhóm người chủ động trong chiến dịch tự thiêu và sẽ tung ra từng loạt ứng viên tự thiêu về các địa phương để nổi lửa đấu tranh. Đại Tá Lê Quang Tung – Tư Lệnh lực lượng Đặc Biệt cấp thời trình với ông Cố vấn Nhu đầy đủ hồ sơ và tin tức về chiến dịch kỳ hiệu này. Ông Nhu ra lệnh: 1- Phải dập tắt chiến dịch này ngay. 2- Làm thế nào bắt Trí Quang, người bị cơ quan tình báo nghi là tác giả chiến dịch tự thiêu. 3- Khi xảy ra vụ tự thiêu nào thì chính quyền địa phương phải lập tức lấy xác đem vào nhà thương thông báo cho tang gia và chính quyền giúp đỡ họ trong việc tống táng.
Cơ quan tình báo Phủ Tổng Thống còn bắt được binh Nhì Ngô Văn Nghĩa phục vụ tại Quân Đoàn II. Binh Nhì Nghĩa đào ngũ từ tháng 2-1963, anh vào Saigon làm đạp nghề xích lô. Binh Nhì Ngô Văn Nghĩa sinh quán tại Bồng Sơn dưới 30 tuổi. Khi bắt được Nghĩa ngoài bản tài liệu gồm một số chỉ thị về kỹ thuật tự thiêu cơ quan tình báo còn tịch thu một số thuốc mê Chloroforme… Và một số chai thuốc chích loại an thần cực mạnh.
Nhờ vụ bắt được Ngô Văn Nghĩa cơ quan tình báo nắm được đầu dây mối nhợ của chiến dịch tự thiêu. Binh Nhì Nghĩa cho biết anh ta sắp xuống Mỹ Tho đem theo một Đại Đức, theo kế hoạch này sẽ nổi lửa tự thiêu trước Tòa Tỉnh Trưởng Định Tường. Qua lời khai của Nghĩa cơ quan tình báo bắt thêm một số người trong đó có cụ già người miền Bắc vào Nam trước năm 1940, cụ già này tục danh ông Sáu Bắc từ đồn điền cao su Hớn Quảng về Saigon trung tuần tháng 7, khi nhân viên tình báo ập vào căn nhà ở đường Tháp Mười (Chợ Lớn) giữa đêm đầu tháng 8 thì lúc ấy ông già Sáu Bắc đang ở trần mặc quần sà lỏn và đang nhậu ba xị đế với gà luộc cùng 3 thanh niên. Khám chiếc rương của ông già Sáu Bắc nhân viên tình báo tịch thu được một số bạc khoảng bẩy chục ngàn đồng.
Ông già Sáu Bắc bị bắt đã khai đại cương rằng, ông không biết Thượng Tọa Trí Quang cũng như Thượng Tọa Tâm Châu là ai cả, ông chỉ nghe chính quyền đàn áp Phật Tử và Sư Sãi. Khi được hỏi ai đưa ông già về Saigon để tự thiêu thì ông già khai là Sáu Trừng. Một cái tên lạ hoắc đối với cơ quan an ninh. Nhưng dần dần cơ quan tình báo cũng tìm ra đầu dây mối nhợ. Sáu Trừng là bí danh tạm thời của một cán bộ cao cấp thuộc tổ chức tôn giáo vận của Đặc Ủy Saigon, Gia Định. Từ đầu tháng 8 Đặc Ủy Saigon, Gia Định của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã được Trung Ương chỉ thị phải đẩy mạnh phong trào đấu tranh của Phật giáo và Sinh Viên Học Sinh đồng thời phải xâm nhập vào hàng ngũ Phật Giáo để nắm thế chủ động. Ông già Sáu Bắc là một trong hàng chục ứng viên tự thiêu mà MTGPMN chuẩn bị cho chiến dịch tự thiêu nhằm đẩy mạnh phong trào tranh đấu của Phật Giáo. Thực sự thì các lãnh đạo Phật Giáo lúc ấy (trừ một vài vị có kinh nghiệm và sách lược về tranh đấu) còn hầu hết chưa có kinh nghiệm về tranh đấu cũng như kỹ thuật nắm quần chúng. Cán bộ hạ tầng thì hết sức phức tạp các vị lãnh đạo trong Ủy Ban Liên Phái không nắm vững được. Ngay một số cán bộ Phật tử cấp Trung Ương cũng phức tạp, tuy nhiên cán bộ cấp Trung Ương hầu hết là lớp người trẻ có tinh thần quốc gia như Lê Hữu Bôi, Nguyễn Trọng Nho, Nguyễn Hữu Đống. Nhóm Nguyễn Hữu Đống, Lê Hữu Bôi, Tôn Thất Tuệ, Nguyễn Trọng Nho, Nguyễn Hữu Doãn đóng một vai trò quan trọng trong việc vận động Sinh Viên ở hai trường Luật Khoa và Quốc Gia Hành Chánh – Bôi không được huấn luyện về kỹ thuật tranh đấu nhưng rất có tài và tỏ ra là người quyền biến. Nguyễn Hữu Đống thuộc trường Cao Đẳng Kiến Trúc tuy thâm trầm, nghệ sĩ nhưng lại trở thành một lãnh tụ sinh viên gan dạ, có nhiều sáng kiến. Ngoài ra có nhóm của Triệu Bá Thiệp (LS) và Nguyễn Mạnh Cường (GS)… nhóm này kết với sinh viên với trí thức. Đại để, các nhóm này đều thuộc thành phần trẻ, trong sạch và đầy nhiệt huyết. Tại Huế ngoài phe Hoàng Phủ Ngọc Tường và Ngọc Phan còn phần đông vẫn là lớp trẻ tuy được gọi là quá khích cực đoan nhưng lại là những Phật tử thuần thành.
Những quy luật tranh đấu cho biết cuộc tranh đấu cũng bộc phát mạnh và càn lan rộng thì cán bộ trung ương càng dễ bị đẩy vào thế bị động và lúc ấy ai nắm được cán bộ hạ tầng và ở địa phương cục bộ thì kẻ ấy nắm được phong trào tranh đấu. Qua kỹ thuật tranh đấu cách mạng trường kỳ của Lénine và Mao Trạch Đông thì cuộc tranh đấu nào bộc phát ở trong lòng đất địch, người cán bộ Cộng Sản phải tàng hình biến hóa và để thích hợp ngay với môi trường tranh đấu và thực tại khách quan đòi hỏi, và hòa vào với thực tại khách quan (như đóng vai trò một Phật tử chân chính thuần thành). Khi xâm nhập vào phong trào tranh đấu ở trong lòng địch, người cán bộ Cộng Sản không bao giờ đứng hàng đầu (1er Plan) tức ở cương vị lãnh đạo trung ương và mặt nổi.
Sau khi tàng hình và thích nghi với thực tại khách quan thì lúc ấy người cán bộ Cộng Sản rất sở trường về chiến thuật “muợn đầu heo nấu cháo” xử dụng kỹ thuật “gậy ông đập lưng ông”…
Đến nay vẫn chưa có bằng chứng nào để nhất đán cho rằng, Thượng Tọa này Thượng Tọa kia là tác giả chiến dịch tự thiêu và thúc đẩy tăng sĩ và Phật tử tình nguyện tự thiêu vì nếu có như vậy quả là đã trái với đức hiếu sinh của nhà Phật.
Nhưng ít nhất thì các vị lãnh đạo Phật Giáo lúc ấy đã theo nhu cầu đòi hỏi của cuộc tranh đấu tất nhiên đã chấp nhận dễ dàng mọi sự tình nguyện hy sinh dù sự tình nguyện đó được thúc đẩy từ một động cơ nào thì ai ở trong cương vị lãnh đạo một cuộc tranh đấu như cuộc tranh đấu của Phật giáo 63, cũng không thể mất thì giờ để cân nhắc, truy tầm nguyên nhân. Lúc ấy cơ quan tình báo Phủ Tổng Thống dù có nắm được đầy đủ tài liệu về sự xâm nhập của Cộng Sản thì ông Nhu hay Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng khó lòng trình bày cho quốc dân thấy rõ, dân chúng sẽ cho ngay rằng chính quyền chụp mũ. Trường hợp ông già Sáu Bắc bị Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cưỡng bách tình nguyện tự thiêu cho Phật pháp, “ông khai là CS cho gia đình ông năm chục ngàn đồng và hứa sẽ cho người con trai út của ông về Hà Nội du học). Ví dụ một vị lãnh tụ Phật giáo có tinh ý biết được nhưng trong tình thế cấp bách của cuộc tranh đấu thì không ai dại gì chống lại sự “tình nguyện cấp bách” này. Các vị lãnh đạo trong Uỷ Ban Liên Phái 1963 chưa có kinh nghiệm chính trị từ một thực tại tranh đấu (vì mới nhảy vào cuộc lại lãnh đạo một phong trào đấu tranh quá lớn rộng) nên hẳn nhiên chưa phân định rõ thế nào là chiến thuật chiến lược, trong những cái thế và điều kiện mà Cộng Sản hết sức mong muốn.
Với Cộng Sản thì cuộc tranh đấu của Phật giáo chỉ là chiến thuật của một giai đoạn nằm trong một chiến lược trường kỳ ngay trong lòng đất địch và do đó sự tự thiêu đối với Cộng Sản chỉ là phương tiện đấu tranh. Lénine đã dạy người CS “Trong cuộc tranh đấu chánh trị thì phương tiện nào cũng tốt”. Phương tiện biện minh cho cứu cánh của CS lúc ấy là làm sao lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm để tạo nên một tình trạng hỗn loạn tại miền Nam. Cứu cánh của một số cán bộ Phật giáo (phe quốc gia hữu phái và tả phái) là lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm nhưng để có một chế độ tốt đẹp hơn trong đó Phật giáo đóng vai trò hàng đầu (như Thượng Tọa Trí Quang đã nuôi hy vọng Phật Giáo trở thành quốc giáo). Còn ông Nhu ở thế chánh quyền thì cứu cánh của ông là phải bảo vệ và giữ vững chế độ (ai nắm chính quyền mà chẳng như vậy). Trong cuộc đấu tranh của Phật giáo đã có hai con đường đi song song. Con đường bên đây là Cộng Sản, con đường bên kia là Phật giáo… giữa hai con đường CS đã tạo ngay ra lối tắt để giao liên, rồi hóa trang con đường của họ như con đường của Phật giáo làm cho chính quyền ở thế kẹt cứng và ông Nhu chỉ còn một thế duy nhất là phong tỏa ngay cả hai con đường và bịt lối tắt giao liên. Đó cũng là lý do khiến ông Nhu phải ra tay hành động vào ngày 20-8.
CHUẨN BỊ DƯ LUẬN RA TAY
Trước khi ra tay hành động, ông Nhu đã khôn khéo chuẩn bị dư luận. Nhưng cuộc chuẩn bị của ông không thành công vì thiếu quần chúng tính và cán bộ thừa hành (cấp Bộ Trưởng) đã không đủ khả năng thực hiện một cuộc phản tuyên truyền và tuyên truyền “đen” để tạo dư luận thuận lợi cho kế hoạch hành động.
Thanh Niên Cộng Hòa ra tuyên cáo số 2 và số 3 cũng như những lời tuyên bố nảy lửa của bà Nhu đã không tác động được tâm lý khối quần chúng trầm lặng, vì giản dị tổ chức Thanh Niên Cộng Hòa với Tổng Thủ Lãnh Ngô Đình Nhu và tập trung hầu hết các công chức nam nữ thì tổ chức này dưới mắt quần chúng chỉ là công cụ của chính quyền. Còn kỹ thuật phản tuyên truyền và tuyên truyền đen (propag endenoire) đã không được xử dụng và nếu có thì lại quá yếu và lộ liễu (như truyền đơn của một số Thương Phế Binh và mấy tổ chức khác)
Bà Ngô Đình Nhu thay vì nên im lặng và nếu có chống thì chống bằng cách khác (có thể xử dụng tuyên truyền đen) nhưng đằng này bà lại quá hăng say phát ngôn bừa bãi và hậu quả là chỉ tạo cho phía tranh đấu có thêm khí thế và có thêm cơ hội phản công chính quyền.
Buổi Đại Hội của Phụ Nữ Liên Đới tại Tòa Đô Chánh Saigon vào thượng tuần tháng 8, bà Nhu lại dùng ngôn ngữ “nướng sư” để nói với các vụ tự thiêu của tăng sĩ. Dư luận Phật giáo lại phẫn uất… trong khi cuộc hòa giải đang có chiều hướng tốt đẹp.
Ông Mai Thọ Truyền cũng không mong muốn gì hơn là thu xếp cho êm đẹp càng sớm càng hay. Các lời tuyên bố của bà Nhu giúp cho phe “tích cực” (gồm Thượng Tọa Trí Quang, Đ Đ Đức Nghiệp, Giác Đức và các sinh viên Phật tử) có cớ để chinh phục và chế ngự khuynh hướng ôn hòa khi khuynh hướng này muốn hào giải với chính quyền.
Để phản ứng lại thái độ và ngôn ngữ của bà Ngô Đình Nhu, ngày 12-8 nữ sinh Mai Tuyết An nữ Phật tử chi hội Phật tử Thị Nghè đã dùng búa chặt cánh tay trái để cúng đường Phật tử và kêu gọi tinh thần tranh đấu của hàng ngữ Sinh Viên Học Sinh. Hành động chặt tay của nữ sinh Mai Tuyết An đã có tác dụng lớn trong Sinh Viên và Học sinh nhất là phía nam sinh viên Học sinh thì hành động của Mai Tuyết An trở thành biểu tượng hy sinh và khích động mạnh vào lòng tự ái của Nam Sinh viên Học sinh. “Phận gái còn như vậy huống chi nam nhi.”
Giới hầu cận của Tổng Thống Diệm cho biết cứ mỗi lần nhận đươc tin tự thiêu hay chích máu chặt tay, Tổng Thống Diệm lại lầm lì một cách khôn tả. Hôm bà Nhu tuyên bố ở Tòa Đô chánh với ngôn ngữ “nướng sư” đã làm cho Tổng Thống Diệm đùng đùng đập bàn nổi giận. Giới hầu cận cho biết, khi ông Dương Văn Hiếu nghe bà Nhu nói như vậy (được trực tiếp truyền thanh). Ông Dương Văn Hiếu chạy lẹ vào Dinh cấp báo với Tổng Thống Diệm:
– Bẩm Cụ, Bà Cố Vấn nói như vậy làm hỏng hết kế hoạch của chúng con. Chúng con đang tiếp xúc bí mật, bên ấy ( Phật giáo) họ đã xiêu lòng bây giờ Bà Cố Vấn lại nói như vậy làm hư hết kế hoạch hòa giải.
Ông Hiếu thuật lại đại cương về lời tuyên bố của bà Nhu… Nhất là ngôn từ “nướng sư”, Tổng Thống Diệm mặt đỏ như gấc… ông hầm hầm nổi giận. Sau đó khi bà Nhu về Dinh, ông Tổng Thống gọi điện thoại, đập tay vào bàn nói như hét: “Mụ nói cái chi lạ rứa…” Phía đầu giây bên kia không biết bà Nhu trả lời ra sao Tổng Thống Diệm la mắng: “tui đã biểu Mụ im ngay đi”.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm nói vu vơ: “Nói năng chi mà lạ rứa người ta đang hòa giải phá thế này rồi nói với người ta thế”
Bà Nhu bị Tổng Thống Diệm la lối như vậy lại mách chồng, ông Nhu rất tức giận vì không hiểu ai vào “tâu” với ông Cụ. Ông Nhu phải truy tầm ra thủ phạm. Mà suốt buổi sáng không có mặt nào quan trọng vào yết kiến ông Cụ… Sau ông mới khám phá ra là khoảng 10 giờ sáng Dương Văn Hiếu có vào phòng Tổng Thống. Ông Nhu gọi điện thoại bảo Dương Văn Hiếu vào Dinh gặp ông gấp. Linh tính báo trước là sẽ có chuyện chẳng lành và đúng là ông Nhu biết rõ mình báo cáo trước ông Cụ nên ông Hiếu thay vì vào thẳng gặp ông Nhu, ông đến phòng Tổng Thống Diệm trước để cầu cứu. Giới tùy viên cho biết ông Hiếu xanh mặt về vụ này và ông nói với Tổng Thống Diệm:
– Bẩm Cụ ông Cố Vấn cho gọi con vào… ông Cố Vấn biết là con báo cáo với Cụ về lời tuyên bố của bà Cố Vấn… Bẩm Cụ… con chết với ông Cố Vấn.
Tổng Thống Diệm trầm tư rồi hỏi: “Bây giờ anh tính thế nào?”
Dương Văn Hiếu thưa ngay: “Trình Cụ, nếu ông Cố Vấn có hỏi con xin nói là Cụ nghe qua radio và Cụ hỏi con có biết gì về lời tuyên bố của bà Cố Vấn thì con nói là có biết”.
Tổng Thống Diệm “Thôi được, anh cứ lên gặp ông Cố Vấn, đã có tôi.”
Dương Văn Hiếu lò dò lên phòng ông Nhu. Tổng Thống Diệm có mấy khi nghe radio bao giờ đâu. Nhưng trong Dinh lại có một số radio nhiều cái rất tối tân do các Đại Sứ tặng. Tổng Thống Diệm bảo ông già Ẩn lấy cho ông một cái và đặt ngay trên bàn. Ông Tổng Thống hỏi: “Cắm điện ở mô?” Ông già Ẩn thưa: “Bẩm cái này chạy pin” Ông Tổng Thống mỉm cười: “Ờ ờ… tìm cho ta cục pin”.
Dương Văn Hiếu vào trình diện ông Nhu. Với vẻ lạnh lùng ông Nhu hỏi:
– Ai báo cáo cho ông Cụ?
Dương Văn Hiếu trả lời:
– Thưa ông Cố Vấn chuyện đó con không được rõ..
Ông Nhu nói:
– Ngoài ông ra thì không có đứa nào báo cáo với ông Cụ.
Ông Hiếu đáp:
– Thưa ông Cố Vấn, sáng nay con có việc vào trình Cụ , có nhẽ Cụ nghe qua radio nên hỏi con có hay biết gì về lời tuyên bố của bà Cố Vấn không, con ngay tình không biết nên trả lời Cụ là có nghe qua radio.
Ông Nhu nhìn Dương Văn Hiếu mỉm cười, biết là Dương Văn Hiếu nói không trúng vì mấy khi Tổng Thống Diệm nghe radio.
Tổng Thống Diệm trong phòng chờ mãi không thấy Dương Văn Hiếu trở lại thì nóng lòng đi về phía phòng ông Nhu. Tổng Thống Diệm cầm chiếc radio mở thật to có ý chứng tỏ cho ông em thấy là Tổng Thống nghe lời tuyên bố của bà Nhu qua radio chứ không phải do Dương Văn Hiếu báo cáo lại. Dáng điệu Tổng Thống không được tự nhiên vì ông Nhu trông thấy bào huynh tay cầm radio đi qua khẽ mỉm cười nên biết được ông anh “nói dối” để che chở cho Dương Văn Hiếu rồi ông Nhu cũng lờ luôn mà không phiền trách gì Dương Văn Hiếu.
Có thể nói bà Nhu trở thành diều hâu số một đối với phong trào tranh đấu của Phật giáo 1963. Bà Nhu mạnh miệng có lẽ cũng là tâm lý không bị mặc cảm tôn giáo. Bà Nhu công khai bày tỏ: “Bộ họ mới là Phật tử hay sao, ba má tôi và cả họ ngoại nhà tôi đều theo Phật giáo. Ai đàn áp ai” Chính ông Nhu cũng bị bà vợ lôi cuốn vào con đường “diều hâu”…
Trung tuần tháng 8 tức là trước ngày bố giáp chùa khoảng 5, 6 ngày. Ông Nhu gặp riêng các nhân vật thân tín Dương Văn Hiếu, Đại Tá Y, Thiếu Tướng Đính cùng với Lê Quang Tung. Rồi một cuộc họp mật kéo dài trong ba giờ. Trước hết là nghe Đại Tá Tung báo cáo tình hình trong quân đội về tinh thần của Binh Sĩ, Sĩ Quan và Tướng Lãnh.
Ông Nhu hỏi: “Đôn thế nào?”
Đại Tá Tung đáp: “Trung Tướng Đôn bây giờ khá lắm, biết cư xử và hăng say làm việc”.
Ông Nhu gật đầu: “Đôn nó biết nghe“.
Đại Tá Lê Quang Tung dè dặt: “Con nghe hình như ông Cụ muốn cử Trung Tướng Nguyễn Ngọc Lễ là Tổng Tham Mưu Trưởng?”
Đại Tá Tung vừa dứt lời thì ông Nhu xua tay: “Già Lễ thì còn mần được cái gì… cho già làm thanh tra là quá mức”.
Ông Nhu lại hỏi: “Cao dạo này sao bết quá vậy?”
Đại Tá Tung hỏi: “Thưa về vấn đề gì?”
Ông Nhu đáp nhát gừng: “Tình hình quân sự vùng IV bết bát lắm… có nhẽ phải cho Khánh nó về dưới đó”.
Đai Tá Tung bênh vực Tướng Cao: “Anh Cao chịu khó lắm, anh ấy coi bộ phàn nàn vì bị phá”.
Ông Nhu hỏi: “Ai phá?”
Đại Tá Tung đáp: “Anh Cao có ý nghi ngờ Phạm Ngọc Thảo”.
Ông Nhu cười khẩy, không đáp. Ông Nhu tỏ ý khen ngợi Tướng Đôn đã cố gắng học tập và bỏ tính bay bướm rồi ông lại hỏi: “Oai nó ở Tâm Lý Chiến có làm được cái gì không?” Ông Nhu hỏi như vậy là ý thăm dò. Sự thực từ ngày Thiếu Tướng Trần Tử Oai làm Giám Đốc Nha Tâm Lý Chiến, Tướng Oai đã có nhiều dịp gặp ông Nhu từ chỗ “năng đi năng lại“. Tướng Oai được ông Nhu đem lòng tin cẩn sủng ái.
Đại Tá Tung và một số ủy viên quân ủy khen ngợi Tướng Oai: “Anh Oai ở ngành Tâm Lý Chiến là hợp với khả năng anh ấy lắm. Con thấy từ tháng 5 đến giờ anh Oai làm việc hết sức cực nhọc”.
Ông Nhu khẽ gật đầu. Sau khi mạn đàm thăm dò “lai rai” ông Nhu đi thẳng vào hai chủ điểm chính: Kiểm điểm một lần chót cùng về thành phần một số Tướng lãnh sẽ đứng sau lưng ông Nhu để ra tay hành động vào đêm 20-8.
Ông Nhu chỉ thị cho Tướng Đôn, Tướng Đính cũng như Đại Tá Tung những điều căn bản phải thực hiện để dẹp phong trào đấu tranh. Ông Nhu đã có sẵn hai kế hoạch thuộc loại tối mật. Kế hoạch A sẽ được đưa ra thi hành vào đêm 20-8. Trong kế hoạch này có điểm phải cắt đứt mọi liên lạc giữa chùa Xá Lợi và các nhân vật Mỹ qua ngả Usom… và bắt cho bằng được Thượng Tọa Trí Quang. Ông Nhu nhắc nhở: “Trí Quang type dangereux”
Kế hoạch A cũng như B hoàn toàn do phía ông Nhu và một số Tướng lãnh soạn thảo trong đó có Đại Tá Lê Quang Tung cũng như hai Tướng Đôn, Đính đã đóng một vai trò quan trọng.
Thiếu Tá Trần Ngọc Châu, sĩ quan thuyết trình viên của Phủ Tổng Thống cũng góp rất nhiều sáng kiến. Trong cuộc họp mật giữa ông Cố Vấn Nhu, Đại Tá Lê Quang Tung cùng cơ quan đầu não đều cho rằng vấn đề chính yếu vẫn là làm thế nào triệt hạ nhóm Thượng Tọa Trí Quang, Đức Nghiệp và Thiện Minh. Đại Tá Tung thuyết trình một lần chót về vai trò của mấy nhà sư này. Theo Đại Tá Tung, Thượng Tọa Trí Quang có nhiều liên hệ với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam còn Thượng Tọa Thiện Minh theo một nhân vật an ninh tình báo trình bày:
– Thưa ông Cố Vấn, cho đến lúc này tôi vẫn tin ông Thiện Minh không phải là Cộng Sản, tôi gặp BS Tuyến, anh Tuyến cũng đồng ý như vậy và anh Tuyến cho biết ông Thiện Minh, muốn thông cảm và hòa giải với chính quyền.
Ông Nhu hỏi:
– Cơ sở làm Tàu Vị Yểu của ông ấy ở Huế có liên hệ gì với tổ chức kinh tài của Cộng Sản không?
Đương sự đáp:
– Con không rõ về vụ này nhưng ông Thiện Minh cũng có một số vốn. Ông Cậu ngoài đó (tức ông Ngô Đình Cẩn) cho biết, có giúp Tổng Hội Phật Giáo một số tiền rất lớn và thường trao thẳng cho ông Thiện Minh.
Ông Nhu tỏ vẻ khó chịu:
– Ông Cậu ngoài đó thì nói làm cái gì, ông ấy nuôi ong tay áo… Còn ông Tâm Châu thì sao?
Đương sự đáp:
– Khi còn ở ngoài Bắc, ông Tâm Châu có tham gia Phong Trào Liên Tôn Chống Cộng và là bạn của Cha Hoàng Quỳnh.
Nghe nhắc đến Cha Hoàng Quỳnh, ông Nhu lắc đầu:
– Nghe nói Cha Quỳnh và cha Oánh ủng hộ mấy ông thầy chùa dữ lắm mà. Tôi chỉ thị cho mấy anh nếu từ nay cha cố nào lộn xộn cứ việc thẳng tay nhưng đừng cho ông Cụ biết.
Ông Nhu lại hỏi: “Me Sừ Đức Nghị hắn thế nào?”
Phần này Đại Tá Tung trả lời. Ông Tung lấy trong cặp ra một xấp hình mới nhất chụp bằng “vi phim” và vừa được phóng lớn. Ông Tung trao cho ông Nhu và nói:
– Đây là một số hình mới nhất chụp tại chùa Xá Lợi và chùa Giác Minh.
Ông xem rồi lắc đầu: “Thế này thì tranh đấu cái gì…?” Ông Nhu mỉm cười: “Nếu cần các toa cứ cho báo nó đăng lên để đồng bào thấy rõ”.
Ông Tung nói:
– Ông Cụ biết thì chết bọn con, hôm nọ có mấy tấm hình “sét” lắm. Con và Hiếu trình lên Cụ. Cụ đỏ mặt bắt đem đi đốt.
Ông Nhu hỏi:
– Các Toa có theo dõi thằng Rufno Philipo không?
Đại Tá Tung đáp:
– Rufno Philipo vẫn bí mật liên lạc với chùa Xá Lợi.
Ông Nhu chỉ thị:
– Tìm cho đủ bằng chứng, phải trục xuất thằng này.
Rufno Philipo sang Việt Nam phục vụ từ năm 1955. Ông ta là một trong những người Mỹ ủng hộ chính phủ Ngô Đình Diệm và khuyến cáo chính phủ Ngô Đình Diệm phải quyết liệt với Pháp và các giáo phái, Rufno Philipo là nhân vật số 2 của USAID, tuy bên ngoài Rufno Philipo là một viên chức cao cấp của USAID nhưng bên trong Rufno Philipo lại phục vụ cho cơ quan tình báo CIA. Đại Tá Tung đã quăng một màng lưới quanh Rufno Philipo và xử dụng cả mỹ nhân kế… cho nên nhất cử nhất động của Rufno Philipo đều lọt vào tai của Đại Tá Tung. Ông Nhu nhấn mạnh:
– Các Toa phải tìm cho được bằng chứng, phải trục xuất ngay mấy thằng ở USAID. Còn thằng Richardson thế nào?
Ông Tung đáp:
– Tuần trước ông ta ăn cơm với con và tối mới tối qua Richardson đi ăn cơm ở Đồng Khánh với tụi con.
Dương Văn Hiếu đáp:
– Cho đến nay, con thấy Richardson không có gì đáng ngại ông ta rất thông cảm với mình. Có điều đáng ngại là thằng Smith.
Ông Nhu bảo lấy bản đồ Saigon và ghi dấu mỗi ngôi chùa. Ông chỉ vào khu vực chùa Xá Lợi:
– Làm thế nào phải isolé ngay!
Ông quay sang hỏi: “Chùa này thế nào… Chùa kia thế nào? “
Đại Tá Tung đáp:
– Quan trọng nhất là chùa Xá lợi, mấy ngôi chùa kia đều là phụ. Con thấy nên tách rời chùa Ấn Quang và chùa Kỳ Viên. Cần phải bố ráp chùa Từ Quang và chùa Giác Minh.
Ông Nhu hỏi: “Sao lại như vậy?” Đương sự giải thích: “Chùa Ấn Quang do Sư cụ Thiện Hòa trụ trì. Sư cụ Thiện Hòa là người Nam hiền đức lắm… Xin ông Cố Vấn nên tách rời chùa của các sư người Nam “
Một vị tướng cắt ngang: “Đã làm thì làm hết, bất kể Trung Nam Bắc”
Ông Hiếu không muốn nói thêm vì biết Tung là người quá khích. Tướng Đính lại quá nóng nảy và ít lâu nay Tung có ý nghi ngờ Hiếu đi với Bác Sĩ Tuyến song ông Nhu lại có vẻ lưu tâm đặc biệt đến ý kiến này, ông Nhu nói: “Làm cách nào để tách rời mấy chùa này?”
Đại Tá Tung đáp: “Con thấy không cách nào làm được cả”
Ông Nhu hỏi: “Theo anh thì thế nào?”
Nhân vật trách nhiệm về tình báo mật vụ đáp: “Theo phúc trình của Cảnh Sát Đặc Biệt thì chùa Ấn Quang hiện nay cũng bị các phần tử qua khích xâm nhập và trong nửa tháng nay xuất hiện nhiều kẻ lạ mặt từ dưới quê lên. Nhưng theo con, đầu não là chùa Xá Lợi, ở Huế là chùa Từ Đàm nếu “bố ráp” hai đầu não này xong thì các chùa khác không quan hệ”
Ông Nhu cho biết ông vẫn băn khoăn về ngôi chùa Xá Lợi tuy là đầu não của Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo nhưng chùa Xá Lợi tiêu biểu cho Phật Giáo miền Nam mà khối Phật Giáo này vẫn tỏ ra ôn hòa , hơn nữa ông Nhu không muốn vì chùa Xá lợi mà làm phật lòng Phó TT Thơ vì có liên hệ mật thiết với Hội Phật Học Nam Việt (Chùa Xá Lợi).
Đại Tá Tung cương quyết:
– Nếu không kiểm soát được chùa Xá Lợi thì không làm thế nào dẹp được phong trào tranh đấu.
Ông Nhu lại nhìn vào bản đồ suy nghĩ rồi gật đầu:
– Tung nói đúng. Vùng này đông dân lại ở trung tâm Đô Thành, gần một số trường học, ở ngay sát bên USOM. Tình hình mấy ngày nay ở trong ấy (tức chùa Xá Lợi), như thế nào?
Đại Tá Tung đáp:
– Dương Văn Hiếu nắm vững tin tức Cảnh Sát Đặc Biệt gài thêm được một số người trong đó. Về phía con thì có 5 agent (điệp viên, tụi nó rất đắc lực…. Các tấm hình vừa rồi là do tụi nó chụp được. Một đứa hiện nay là hộ vệ của Đức Nghiệp .
Ông Nhu mỉm cười, chưa bao giờ ông có nụ cười tươi như vậy, Đại Tá Tung còn khoe: “Con có trao cho nó một trăm ngàn đồng để đưa cho Đức Nghiệp”
Ông Nhu ngạc nhiên: “Để làm cái gì?”
Đại Tá Tung đáp: “Nó (tức hộ vệ viên) đóng vai Phật Tử con nhà giầu và đưa tiền cúng dường Phật Pháp…”
Cả ba người cùng cười vui vẻ, ông Nhu nói: “Coi chừng không có nó lại cho vào túi riêng của nó”
Đại Tá Tung quả quyết “thằng này tin cẩn lắm, trước nó phục vụ ở 707″
Ông Nhu hỏi: “Các Toa tính sao nữa đây?” Ông Nhu nói thêm: “Mọi việc phải tuyệt đối bí mật, điều cần là không nên cho ông Cụ biết (tức TT Diệm) sau nữa là bọn CIA”
Sau cùng ông Nhu quyết định sẽ “bố ráp” tất cả mọi ngôi chùa nào khả nghi ngoại trừ các chùa tại miền Tây. Ông Nhu căn dặn: “Chùa nào không có khả nghi thì cứ để nguyên, không được xâm nhập…”
Đại Tá Tung trình bày thêm một số chi tiết:
– Thưa ông Cố Vấn kế hoạch A phải có sự phối hợp chặt chẽ của Lực Lượng Đặc Biệt, Cảnh sát, An Ninh Quân Đội và các cơ quan bán quân sự…
Ông Nhu đáp:
– Không cần thiết, Lực Lượng Đặc Biệt và Cảnh Sát là đủ rồi, Quân Đội được xử dụng ở kế hoạch B.
Ông Nhu nhấn mạnh:
– Mọi việc phải thi hành và kết thúc nội trong 1 giờ và phải chớp nhoáng… Giờ nào thuận lợi nhất?
Nhân vật An Ninh Tình Báo đáp: “khoảng 12 giờ đêm”
Đại Tá Tung nói:
– Hơi sớm, độ 1:30 sáng là vừa.
Ông Nhu hỏi:
– Bên trong các chùa họ có võ trang đề phòng gì không?
Đại Tá Tung đáp: “Chùa Từ Đàm và Diệu Đế bây giờ giống như Ấp Chiến lược”.
Ông Nhu cả cười hỏi:
– Có súng đạn gì không?
Đại Tá Tung đáp:
– Dạ thưa không nhưng có gạch đá, săng, gậy, vỏ chai…
Ông Nhu hỏi:
– Chùa Xá Lợi, Ấn Quang thì sao?
Ông Tung đáp:
– Cũng như vậy. Riêng chùa Xá Lợi tin tức cho biết hiện nay họ không đề phòng gì cả chỉ có một số thanh niên giữ trật tự và kiểm soát anh ninh.
Một vị Tướng lên tiếng bảo Đại Tá Tung:
– Toa và Dương Văn Hiếu phải coi chừng chuông mõ!
Ông Nhu tỏ vẻ ngạc nhiên đương sự đáp:
– Khi mình tiến vô kiểm soát thì thế nào họ cũng khua chuông gõ mõ để báo động.
Đại Tá Tung đáp:
– Không thể làm thế nào được hơn. Moa sẽ nói với Hiếu để “lũy” gài thêm người vào để tụi nó lo phần mõ.
Ông Nhu đắc ý: “Ờ ờ đúng… mà họ có thể dùng chậu phèng la”. Đại Tá Tung nói: “Tụi con sẽ nghiên cứu kỹ việc này. Nhưng nếu tiến vô họ chống đối thì làm sao?” Ông Nhu trầm ngâm rồi đáp: “Tuyệt đối không được gây đổ máu”.
Khi ông Nhu chỉ thị phải tránh đổ máu thì Đại Tá Tung thắc mắc: “nếu họ chống cự họ ném gạch đá thì làm sao tránh cho được?” Ông Nhu lắc đầu: “Bằng mọi cách phải tránh đổ máu”. Ông Nhu bèn qua kế hoạch B, phần này, ông Nhu nói giản dị: “Để cho Đôn và Đính nó lo. Các Toa lo phần đầu… ” Sự thực thì cả hai kế hoạch đều do Tướng Đính điều động .
GIẢI PHÁP CUỐI CÙNG
Ngày 20-8, Hội Đồng Tướng Lãnh nhóm họp tại Bộ Tổng Tham Mưu để thảo luận về vụ tranh đấu của Phật Giáo và tìm biện pháp đối phó để ngăn chặn Cộng Sản và đồng thời tái lập trật tự an ninh tai đô, thị tỉnh. Ông Nhu không trực tiếp chỉ thị cho Hội Đồng Tướng Lãnh phải có thái độ thế nào, hành xử thế kia. Nhưng xuyên qua cuộc tiếp xúc riêng giữa ông Nhu với các Tướng Đôn, Đính, Oai, Khánh, Trí… thì những ý kiến đưa ra thảo luận lại là chính ý kiến của ông Nhu nằm trong kế hoạch A và B. Trước một quyết định quá ư quan trọng đối với lịch sử và nhất là Phật Giáo, ông Nhu cố ẩn mình trong bóng tối giật giây cho Hội Đồng Tướng Lãnh hành động.
Kết quả, Hội Đồng Tướng Lãnh quyết định, Quân Đội phải ra tay. Có một số ý kiến chống lại việc bố ráp chùa chiền trong đó có ý kiến của Tướng Khánh nhưng thực ra Tướng Khánh chỉ phát ngôn theo sự chỉ dẫn của ông Nhu. Trước đó, Tướng Khánh từ Pleiku về Saigon được gọi vào dinh gặp riêng ông Nhu. Cuộc tiếp xúc kéo dài hai tiếng đồng hồ. Lúc trở ra, Tướng Khánh lộ vẻ tươi vui hớn hở. Không hiểu nội dung cuộc tiếp xúc như thế nào nhưng Tướng Khánh tiết lộ với Đại Tá Tung và một số sĩ quan cao cấp của Quân Ủy rằng, ông chống lại việc bố ráp chùa chiền để thăm dò thái độ của các tướng như thế nào, thì hầu hết các tướng nhất là ba Tướng Đôn, Đính, Oai không đồng ý và chủ trương phải áp dụng biện pháp mạnh đối với phe đấu tranh.
Ông Nhu đã thành công trong việc hướng dẫn Hội Đồng Tướng Lãnh qua Tướng Đôn và Oai. Ông Nhu chỉ thị không nên để quân đội trực tiếp hành động qua quyết định của Hội Đồng Tướng Lãnh và làm thế nào để Hội Đồng Tướng Lãnh có chung một thái độ còn phương thức hành động ra sao thì để tùy quyền các Tướng Tư Lệnh Vùng. Kết quả, Hội Đồng Tướng Lãnh đã đi đến một quyết định như vậy sau lời tuyên bố của Tướng Đôn “Bây giờ các toa ai nấy trở về vùng mình và tùy nghi quyết định lấy. Nhưng 12 giờ đêm nay, các Toa đợi lệnh Thượng Cấp”. Vùng IV được coi như vô sự, vùng II riêng thành phố Nha Trang phải ban hành lệnh giới nghiêm từ ngày 15-8. Linh Mục Cao Văn Luận bị chấm dứt nhiệm vụ Viện Trưởng Đại Học Huế kể từ ngày 16-8 và Giáo Sư Trần Hữu Thế, nguyên Bộ Trưởng Giáo Dục và Đại Sứ Việt Nam tại Phi Luật Tân được triệu hồi về nước thay thế Linh Mục Luận. Tình hình ở Huế tuy bên ngoài có vẻ lắng đọng về phía Phật tử nhưng hàng ngũ sinh viên bắt đầu dấy động mạnh mẽ. Nhưng thủ lãnh của họ như Ngô Kha , Nguyễn Diễn đã thực sự lao đầu vào cuộc.
Ngày 20-8, Đà Nẵng lại có biểu tình lớn. Phong trào tranh đấu của Phật Giáo lan rộng vào học đường và biến thái để trở thành cuộc tranh đấu của tuổi trẻ, giáo giới hầu hết cũng thay đổi thái độ do dự trước đây… Mọi người thao thức “phải làm một cái gì đó…” Lúc ấy không ai dự đoán một cái gì đó sẽ đem lại cho quê hương kết quả như thế nào?
Sinh viên đại học Saigon, giới trí thức và văn nghệ sĩ đã nghiêng hẳn về phía Phật Giáo. Nhóm Nguyễn Mạnh Cường khuấy động mạnh mẽ tại hai trường Luật và Văn Khoa. Nhóm Nguyễn Hữu Đống đi sát với UBLPPG và mỗi ngày nhóm này càng phát triển và thanh thế lan rộng, thu hút khối Học Sinh đông đảo tại mấy trường lớn như Chu Văn An, Gia Long, Trưng Vương, Võ Tường Toản, Pétrus Ký, Cao Thắng. Chính điều này đã làm cho ông Nhu lo lắng. Ông Nhu nói vói Cao Xuân Vỹ cũng như Lê Quang Tung: “Mấy ông thầy chùa tranh đấu dẹp lúc nào là xong lúc ấy nhưng các chú coi chừng mấy thằng sinh viên” Ông Nhu cũng nhấn mạnh: “Bọn trẻ nó nổi loạn thì khó cho mình lắm!”
Nếu phân tách phong trào tranh đấu 63, bỏ ngoài những khuấy động ngoại tại, thì phong trào đó kể từ đầu tháng 8 đã biến thái trở thành phong trào tranh đấu của tuổi trẻ. Đây là lần thứ nhất kể từ 19-8-1945, tuổi trẻ đã vùng dậy với tất cả khí thế và nhiệt huyết, tranh đấu để mà tranh đấu thế thôi. Phải làm một cái gì- Một cái gì đó đẹp như mơ. Đó là tiếng gọi thống thiết của tuổi trẻ 63. Ủy Ban Liên Phái Bảo vệ Phật Giáo đã có cái may lớn nhất là dựa vào lực lượng lớn lao của tuổi trẻ lúc đó. Ông Nhu nhận định rõ tầm quan trọng của hàng ngũ Sinh Viên Học Sinh nên phải tìm cách đối phó ngay. Khi thấy Học Sinh Sinh Viên tham dự biểu tình tuyệt thực, TT Diệm trách cứ Bộ Giáo Dục thì ông Nhu xác định rõ như thế này: “Cứ để mấy ông thầy chùa kéo dài dài như rứa thì chỉ còn cách đóng hết các cửa trường mà thôi”. Trong kế hoạch A và B trọng tâm của ông Nhu là tách rời cuộc tranh đấu của Phật giáo với tập thể Sinh Viên Học Sinh và trí thức. Bản chất của trí thức thành phố vốn lè phè cầu an, do dự đắn đo vị kỷ nhưng không phải là không nguy hiểm nếu giới này xoay lưng lại chống đối chính quyền và xáp vô tập thể Sinh Viên Học Sinh – khi trò tranh đấu mà có Thầy đứng đằng phía sau hỗ trợ thì đó mới là điều nguy hiểm đối với bất cứ một chính quyền nào.
Ông Nhu đã đứng vào thế chân tường: một là để chế độ sụp đổ hai là phải dẹp phong trào đấu tranh. Muốn dẹp phong trào tranh đấu mà Sinh Viên và Học Sinh đã trở thành tiềm lực thì phải đánh bật cái khối địa hình chỉ đạo (tức Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo). Khi cái khối này tan vỡ thì các khối vô định hình khác như Sinh Viên và Học Sinh cũng tan vỡ theo và lúc đó thì Cộng Sản cũng như các thành phần chống đối khác sẽ không còn đất để tổ chức và lãnh đạo quần chúng hầu tranh đấu cho các mục tiêu của họ ẩn nấp qua chiêu bài Phật Giáo tranh đấu.
Thế của ông Nhu lúc ấy chỉ còn một chọn lựa: một mất một còn – được ăn cả ngã về không. Ai ở cái thế chính quyền như trường hợp ông Nhu cũng phải chọn lựa như vậy.
Các lực lượng chống đối mỗi ngày mỗi tăng triển mau lẹ và nhất là thành phần quốc gia bấy lâu bị tan rã nhưng nhờ biến cố Phật Giáo đã tạo được cơ hội kết hợp cùng nhau. Thành phần quốc gia ở đây không phải do một số lãnh tụ già nua mà hầu hết đều thuộc giới trẻ với tất cả khí thế và khát vọng thực hiện một cuộc cách mạng xã hội tận gốc tận ngọn tại miền Nam. Khát vọng đó mới chỉ thành ý niệm mơ hồ nhưng gặp môi trường thuận lợi ý niệm kia bỗng dưng trở thành ngọn lửa mỗi ngày một bốc cao theo cơn giông bão của thời cuộc. Ông Nhu không phải là không nhận thức rõ tầm quan trọng và nguy hiểm của cái thành phần chống đối này.
Cuộc thương nghị giữa chánh quyền và Phật Giáo vẫn bế tắc. Cộng Sản và các thành phần đối lập chỉ mong duy trì sự bế tắc này. Càng bế tắc càng thuận lợi cho mục tiêu riêng của họ Riêng mục tiêu tranh đấu đòi quyền bình đẳng tôn giáo của Uỷ Ban Liên Phái ông Nhu bảo với Cao Xuân Vỹ: “đòi như rứa thì làm sao mà thỏa mãn cho được. Mục tiêu chiến lược mà…” Ông Nhu ở cái thế hai chân bị đặt vào chậu nước sôi.
Quần chúng ở đâu và ở bất cứ thời nào cũng chỉ là tập thể bị thống trị. Tập thể bị thống trị ấy tuy chỉ là khối vô định hình nhưng luôn luôn tiềm ẩn cái mầm công phẫn chống đối cái thiểu số thống trị – tức nhà cầm quyền – phong trào tranh đấu của Phật Giáo kể từ đầu tháng 8 đã gây được niềm phấn khởi trong khối quần chúng đông đảo kia. Phong trào tranh đấu của Phật giáo được lòng đa số quần chúng thì đồng thời cũng dễ dàng gây xúc động và thu hút được giới trí thức, văn nghệ, báo chí và sinh viên. Nhất là giới văn nghệ và sinh viên cũng như báo chí luôn luôn có khuynh hướng nghiêng hẳn về phía bị thống trị (trừ quần chúng) để chống lại thiểu số thống trị. Sau cái chết của Nhất Linh và nhất là qua thái độ kiêu căng quá lố của bà Nhu cùng ngôn ngữ sỗ sàng của bà đối với các nhà lãnh đạo Phật giáo và nhân sĩ , hầu hết văn nghệ sĩ nếu không công khai thì cũng âm thầm ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật giáo. Đáng kể là thái độ của hội Bút Việt với LM Thanh Lãng và nhà thơ Vũ Hoàng Chương. Nhóm trẻ với những Thế Phong (Đại Nam Văn Hiến) Khải Triều, Đỗ Ngọc Trâm và những Thế Nguyên, Diễm Châu, Nguyễn Khắc Ngữ… Tuy họ chỉ là một tối ư thiểu số nhưng chính thành phần trẻ đã trở thành hấp lực thu hút đám đông và gây thêm phần phấn khởi cho cuộc tranh đấu.
Ông Nhu phải chọn lựa như một giải pháp cuối cùng. 9 giờ đêm ngày 20-8, ông gặp Đại Tá Lê Quang Tung để xét duyệt kế hoạch lần chót và suốt buổi chiều ông đã thảo luận tỷ mỷ với Tướng Đôn, Đính, Oai… Tối hôm ấy Tổng Thống Diệm đi ngủ sớm hơn thường lệ. Ông Nhu chỉ thị cho ông Tung và mấy viên chức cao cấp của cảnh sát và tình báo: “Thận trọng tối đa nhất là đối với ông cụ Tịnh Khiết… phải “sole” ngay mấy đứa quá khích, phải phối hợp chặt chẽ với Đính… Thắc mắc thêm cứ hỏi Đôn hay Đính”
Cuộc hành quân bố ráp chùa chiền tuần tự tiến hành kể từ lúc 11 giờ đêm sau khi các viên chức cao cấp đã lãnh đầy đủ những chỉ thị của Tướng Đính tại Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt. Đại Tá Tung được viên chức cao cấp của Cảnh Sát Đặc Biệt thông báo riêng như sau: “Tôi không hiểu như thế nào, tụi nói mới ở trong Xá Lợi về cho biết, mấy ông thày chùa hội họp liên miên từ hồi chiều đến giờ. Trong chùa đã có lệnh báo động họ đang bố trí để chống lại ” – ông Tung đáp: “không sao, một lát sẽ hốt hết!” – Viên chức này cho biết thêm: “lúc 9 giờ, tụi nó ghi được số xe của Mai Thọ Truyền… ở trong chùa đi ra, hình như có một người nằm phía sau xe”. Ông Tung kinh ngạc: “Sao không cho bám sát ngay và chặn lại… Thích Trí Quang lọt lưới thì hỏng hết”…
Thực ra thì từ sáng ngày 20, Đại Đức Thích Đức Nghiệp qua một đường giây đặc biệt đã nhận đươc nguồn tin chính quyền sẽ tấn công chùa Xá Lợi và Ấn Quang nội trong ngày 20 và 21. Cũng 8 giờ tối ngày 20, ông Smith, Phó Giám Đốc CIA đến trụ sở USOM – có lẽ để quan sát tình hình và chính ông Smith đã gọi điện thoại cho Đại Tá Tung hỏi: “Đêm nay hình như đại tá phải đi hành quân?” Ông Tung chột dạ đem chuyện này báo cáo với ông Nhu. Ông Nhu mỉm cười: “Hồi chiều Truheart có hỏi moa… Không sao, chắc chắn là tụi nó biết rồi nhưng cứ việc tiến hành. Cần mần răng Thích Trí Quang không thoát khỏi ra Sài Gòn” Đại Tá Tung quả quyết: “Ông Cố Vấn cứ yên tâm Trí Quang không thể nào thoát khỏi”. Ông Nhu dặn thêm: “Phải biệt lập ông ta một nơi giao cho chú mày phải trực tiếp khai thác… đối xử với ông ta như sĩ quan cấp Tướng” Ông Nhu lại bảo ông Tung: “phúc trình ngay vào chiều mai. Vụ cháu ông Sinh như thế nào? Nó tiết lộ gì thêm không?” Đại Tá Tung cho biết: “cháu đang khai thác, những điều hắn tiết lộ đem đối chiếu với diễn tiến thì đúng” – (cũng nên ghi thêm: ông Cửu Sinh là thân phụ của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp – một kỳ hào đại chủ ở làng An Xá thuộc Tổng Đại Phong cùng một Tổng với gia đình TT Diệm – thời Pháp ông Sinh được hàm Cửu phẩm văn giai)
12 giờ đêm ấy, Đại Đức Đức Nghiệp được điện thoại bí mật báo cho biết cảnh sát sắp sửa tấn công chùa. Xá Lợi náo động – Hàng trăm tăng ni tín đồ tuy giao động mà thêm phấn khởi. Ông Nguyễn cho biết: “Chúng tôi quyết một lòng tử thủ – số gạo dự trữ trong chùa có thể ăn được hơn một tuần. Chúng tôi dự trữ đầy đủ tương, chao, muối, và nước. Hàng chục thùng đèn cầy và dầu để đề phòng một khi chính quyền cúp điện nước. Một số các Phật tử trẻ yêu cầu các Thượng Tọa Đại Đức lãnh đạo tìm đường rút ra khỏi chùa nhưng Thượng Tọa Tâm Châu quyết định ở lại – chính sự có mặt của các Thượng Tọa Đại Đức làm cho khí thế càng thêm mạnh. Chúng tôi chuyển các chậu kiểng lên lầu và đó là khí giới tử thủ”.
12 giờ 30, cảnh sát đã hoàn toàn phong tỏa quanh vùng Xá Lợi. Ông Trần Văn Tư làm Giám Đốc Cảnh Sát Đô Thành trực tiếp nhận chỉ thị của Đại Tá Nguyễn Văn Y, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia cũng như hai Tướng Đôn và Đính. Dưới quyền ông gồm có lực lượng cảnh sát của quận III (cò Kính) và Quận I (Đại Úy Quyền) cùng lực lượng Cảnh Sát Chiến Đấu của Thiếu Tá Dần. Mấy ông cò nhìn nhau một thoáng lo ngại. Trong thoáng chốc, khu Xá Lợi bỗng nhiên huyên náo, tiếng máy xe nổ, tiếng người lao xao, tiếng la hét thất thanh, chuông mõ khuya rầm rĩ. Hơn nửa giờ, toán Cảnh Sát Chiến Đấu tiền phương không thể nào tiến vào được chùa… Gạch đá ném dữ dội quá. Đại Úy Quyền bị chậu kiểng ném trúng, thương tích khá nặng. Hơn 10 cảnh sát chiến đấu bị loại khỏi trận. Qua máy, Tướng Đính hối thúc ông Tư: “Làm gì mà lúng túng vậy, xáp đại vô” – Rồi đợt thứ 2, lại trận mưa gạch đá và chậu kiểng, ghế, kể cả cánh cửa. Chuông mõ vẫn vang rền – những tiếng hò hét thất thanh kêu cứu trong tuyệt vọng. “Bớ người ta cảnh sát phá chùa… Bớ người ta cảnh sát giết thầy chùa chúng tôi”... Từng loạt đạn mã tử nổ càng làm tăng không khí cực kỳ máu lửa, giao động… ông Nguyễn nói: “Lúc ấy tôi không còn nghĩ gì hơn là chiến đấu cho đến chết để bảo vệ các thầy” Trong tiếng la hét vẫn thỉnh thoảng xen lẫn tiếng tụng niệm của các vị sư già và nữ Phật tử. Lần này Cảnh Sát chiến đấu lọt vào sân chùa. Hơn một nửa giờ chiến đấu, sức chống cự của những người cố thủ kiệt dần… kiệt dần… Rồi từng loạt nổ chát chúa… khói tỏa mù mịt. Ông Nguyễn nói: “Một trái lựu đạn cay liệng vào đúng chân tôi… chịu không thấu, tôi quị ngay từ lúc ấy… Nước mắt dàn dụa… mọi người kêu khóc”…
1g30 thì Cảnh Sát hoàn toàn làm chủ tình thế. Cảnh sát viên Quý cho biết: “Tôi thuộc toán có phận sự chiếm phương trượng – nơi có tượng Đức Thế Tôn – Ông Giám Đốc Tư chỉ thị cho bọn tôi phải chiếm ngay phương trượng và đứng dàn bao quanh, cấm không được một ai lai vãng. Không được sờ mó đến bất cứ một thứ gì”. Cảnh sát viên Quý cho biết thêm: “Toán chúng tôi rút lui sau cùng, sau khi ông Giám Đốc Tư khen ngợi bọn tôi và chính tôi được lệnh lấy hương đốt rồi vái Phật cho đến lúc ấy đèn nến vẫn sáng trưng”.
Các Thượng Tọa, Phật Tử đều ngất ngư… Nhiều người ngất xỉu vì hơi cay. Hòa Thượng Hội Chủ Tịnh Khiết bị mảng của chậu kiểng bắn vào mắt. Ông Nguyễn nói: “Chúng tôi bị lùa lên xe Camion. Nhiều người bị xỉu không đi nổi thì cảnh sát khiêng bỏ lên xe… Từ đó tôi càng thêm căm thù chế độ Ngô Đình Diệm”
Cuộc lục soát chấm dứt lúc 2g10. Tướng Đôn khen ngợi Giám Đốc Cảnh Sát Đô Thành và một số viên chức cao cấp. Ông nói: “Lúc đầu moa tưởng các toa không vô được – chậm 15 phút nữa thì moa phải cho bọn Dù và Thủy Quân Lục Chiến thay thế các toa”.
Bác sĩ Lê Văn Triều được chỉ định đặc biệt để trông nom về phần y vụ đối với các Thượng Tọa và Phật Tử bị Cảnh Sát giam giữ tại bót quận 7.
Cùng một giờ với Xá Lợi, chùa Từ Đàm, Diệu Đế tại Huế cũng như Ấn Quang và một số chùa trên toàn quốc đều bị kiểm soát như vậy. Nhưng chỉ có chùa Từ Đàm, Ấn Quang, Xá Lợi sức chống cự của Phật tử được coi là gay cấn mạnh mẽ.
Sau cuộc hành quân Cảnh sát này, Đại Tá Tung cũng như hai Tướng Đôn, Đính đều hốt hoảng vì không bắt được Thượng Tọa Thích Trí Quang. Cảnh Sát Đặc Biệt của ông Dương Văn Hiếu trong khi lục xoát chỉ tìm được một tấm căn cước của Thượng Tọa Thích Trí Quang cùng một số tài liệu và rất nhiều thư từ. Ông Giám Đốc Cảnh Sát Đô Thành báo cáo cho biết, riêng khu vực Xá Lợi có 30 cảnh sát bị thương vì gạch đá và chậu kiểng từ phía trên lầu ném.
Cùng lúc xảy ra cuộc lục soát chùa Xá Lợi và Ấn Quang, Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Phòng Vệ Thủ Tổng Thống nhận được báo cáo: “có lính Lực Lượng Đặc Biệt xâm nhập yếu khu I và đã chiếm Bưu Điện” Thiếu Tá Duệ xin chỉ thị của Tư Lệnh và mọi người tưởng có binh biến. Sĩ quan Tùy Viên báo cho Thiếu Tá Duệ “giờ Tổng Thống đang ngủ” – Sau đó Bộ Tư Lệnh mới được biết, Lực Lượng Đặc Biệt chiếm Bưu Điện để kiểm soát các đường giây ra ngoại quốc.
3 giờ đêm, TT Diệm bị đánh thức vì có điện thoại của Phó Đại Sứ Mỹ. Không hiểu ông Phó Đại Sứ Mỹ nói những gì, tùy viên chỉ nghe thấy TT Diệm dằn giọng “Tôi rất tiếc, tôi chịu trách nhiệm. Đó là việc nội bộ” . Ông Tổng Thống buông máy đứng lên buộc lại chiếc cạp quần rồi mở cửa đi ra bao lơn.
4 giờ 30 ngày 21, Hội Đồng Nội Các được triệu tập. Tất cả im lặng. Không khí nặng nề khó thở. Tổng Thống Diệm lên tiếng. Ông tường trình về biến cố vừa qua. Không một ai lên tiếng phản đối ngoại trừ bộ Trưởng Ngoại Giao Vũ Văn Mẫu thì cho rằng biến cố hồi đêm tạo thêm khó khăn cho các vấn đề bang giao quốc tế đối với Việt Nam – Phó TT Thơ phàn nàn, biến cố hồi đêm đã cắt đứt mọi cố gắng dàn xếp của Ủy Ban Liên Bộ. TT Diệm tuyên bố: “Vì có tin VC sắp tràn vào thủ đô và tình hình an ninh mỗi lúc một nguy, chính phủ phải hành động cương quyết và lãnh trách nhiệm trước lịch sử”.
Tổng Thống Diệm ký sắc lệnh 84/TTP ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn quốc và giao cho Quân Đội trách nhiệm bảo vệ an ninh trật tự. Thiếu Tướng Đính được cử làm Tổng Trấn Saigon Gia Định.
Ngày 21-8, Đại Sứ Trần Văn Chương từ chức Đại Sứ Việt Nam tại Mỹ nhưng ngày 22 chính quyền VN thông báo ĐS Chương bị chấm dứt nhiệm vụ. Cũng vào ngày hôm đó, ông Nhu sửa soạn một chuyến đi săn tại Bình Tuy nhưng phút chót bãi bỏ vì phải có mặt tại Sài Gòn để đối phó với Tân Đại Sứ Mỹ Cabot Lodge.
Ngày 24, Bộ Trưởng Nguyễn Quang Trình ký nghị định tạm thời đóng cửa các trường Đại Học, Trung Học và Tiểu Học tại Saigon Gia Định nhưng chỉ một hôm sau trên 2000 sinh viên Học Sinh lại biểu tình trước chợ Bến Thành. Vụ này, một thiếu nữ tên Quách Thị Trang bị bắn chết – Hơn 1000 thanh niên bị bắt và đưa xuống Quang Trung.
Được tin, TT Diệm lại nổi giận vì trước đó ông Lodge nói với TT Diệm rằng: “Cái chết này thêm một bằng chứng để Cộng Sản tấn công Hoa Kỳ và càng làm khó khăn cho chính phủ Kennedy trong việc trợ giúp Chính Phủ Việt Nam chống lại Cộng Sản” – Ông Tổng Thống chỉ thị cho Đại Úy Bằng: “Mi xem ai giết nó” – Phía Tòa Tổng Trấn thì đổ tội cho Cảnh sát nhưng Tướng Đôn cho rằng không thể biết rõ ai bắn. Có thể là quân đội. Trong phần phúc trình trước Hội Đồng Tướng lãnh, Tướng Đôn cho rằng đó chỉ là một cô gái quê. Tướng Oai cũng nói: “Chắc nó đi chợ Bến Thành chẳng may gặp đám biểu tình rồi bị đạn lạc” – Quách Thị Trang được đưa vào bệnh viện Đô Thành rồi đưa lên nhà thương Cộng Hòa cấp cứu. Nàng tắt thở tại đây. Trong một tuần lễ, Cảnh Sát Đặc Biệt của ông Dương Văn Hiếu không tìm ra xuất xứ của Trang cũng không rõ lý lịch của Trang nữa.
Nhưng từ đó, Quách Thị Trang trở nên thần tượng để gây thêm phấn khởi và tạo dựng khí thế tranh đấu trong hàng ngũ SVHS.
Cũng từ đây, cuộc đấu trí giữa ông Ngô Đình Nhu và Cabot Lodge đã thực sự mở màn, gay cấn sôi nổi từng ngày và qua từng pha “vật lộn” với ngôn ngữ đối thoại và “Cách chơi” không kém tân kỳ. Nhưng ngay từ lúc mở màn trận đấu nghĩa là từ khi Cabot Lodge đặt chân xuống phi trường Tân Sơn Nhứt, phía ông Nhu đã thua thiệt vì lỗi lầm từ căn bản chiến lược đối với Cộng Sản cũng như đối với Mỹ qua Cabot Lodge, Harriman- Hilsman.
Đối với Cộng Sản cũng như đối với các phần tử CIA Mỹ (chống chính quyền Ngô Đình Diệm) “Vụ Phật Giáo” với “danh nghĩa Phật giáo” chỉ còn là một cái chiêu bài quy tụ để thu hút “quảng đại quần chúng ngoài đường” cái “lý luận tự nhiên” của sự việc, bắt các biến cố phải mỗi ngày gia tăng trầm trọng. Cộng Sản cũng như Mỹ qua Cabot Lodge đã thành công trong việc “xoay thế” tìm “quyết định chiến lược” bằng chính trị “tập hậu” sau lưng chánh quyền Ngô Đình Diệm! Chính quyền Ngô Đình Diệm chỉ còn hai ngả đường: một là tìm kế dập tắt mau chóng nội vụ, hai là sụp đổ! (hoặc dập tắt không khôn khéo, và sụp đổ theo sự vụng về của mình).
Đứng về phương diện chiến tranh Cách Mạng Cộng Sản và kể cả mưu đồ theo chiến lược của Mỹ qua nhóm “VN Task Force” mà xét thì thử xem chánh quyền Ngô Đình Diệm đã đối phó ra sao, với sự “xoay thế” của địch – Chính quyền đã lỗi lầm ra cái lệnh “cấm treo cờ” bất thích thời. Chính cái lỗi lầm mà bất cứ chánh quyền nào thiếu sự cảnh giác, cũng có thể mắc phải với một bộ máy hành chánh quen chiếu lệ (routinier). Điều đó không đáng trách lắm. Điều đáng trách là, khi đã lỗi lầm rồi, không biết kịp thời khôn ngoan sửa lại, để đến nỗi bị tràn ngập bởi các biến cố. Trước hết, chánh quyền không có một đường hướng dứt khoát trong việc giải quyết vì không dựa vào sự phân tách thực tế khách quan, mà chỉ dựa vào ý kiến (và cảm xúc) chủ quan của mình! Đầu tiên quen lệ khiển chế các “tổ chức quần chúng” theo quan điểm chiến thuật, chánh quyền cho là phải cương quyết bảo vệ uy tín, nếu cần bằng biện pháp mạnh. Rồi vì áp lực của dư luận Quốc Tế, nhất là Hoa Kỳ, chính quyền đã nhượng bộ điều giải. Nhưng trong lúc ấy thì một “tập thể quần chúng” của chính quyền (mà dư luận có lý để đồng nhất dễ dàng với chánh quyền) Phong trào Phụ Nữ Liên Đới bằng tiếng nói căm thù của bà Ngô Đình Nhu lại công khai thóa mạ đối phương. Cuộc điều giải tất nhiên thất bại: và dư luận bênh kẻ yếu, tất nhiên kết án chánh quyền là lừa gạt, giả dối! Tình trạng không thể kéo dài: Một thứ Quốc Gia trong Quốc Gia. Chánh quyền Ngô Đình Diệm đã chọn biện pháp dứt khoát thanh toán nội vụ vào cuối tháng 8-1963.
Về phương tiện thuần chiến lược chiến tranh Cách Mạng Cộng Sản, biện pháp thanh toán ấy có thể biện minh được dễ dàng: Phải phá tan âm mưu của Cộng Sản “xoay thế” đang đi đến “quyết định chiến lược” bằng đòn chiến thuật “tập hậu” như đã nói. Nhưng về phương diện trách nhiệm tinh thần, thì chính quyền phải chịu trách nhiệm vì đã để cho “vụ Phật giáo” phát khởi, vì đã để cho nó biến chuyển trầm trọng đến tình trạng nọ! Và tự nhiên dư luận sẽ dễ dàng đặt câu hỏi: Phải chăng chánh quyền đã cố ý cho “vụ Phật Giáo” xảy ra như vậy để lấy cớ “đàn áp Phật giáo“? Sau nữa về phương diện kỹ thuật của biện pháp thanh toán, chánh quyền đã lầm lẫn tai hại. “Kỹ thuật hành quân“ có thể nói là hoàn hảo, nhưng kỹ thuật bố trí chánh sự, thực là thấp kém. Trước hết là vì chính quyền đã công khai và chính thức tự mâu thuẫn, tố cáo mấy nhà sư “là Cộng Sản” (những người Cộng Sản mà chính quyền đã nuôi dưỡng, o bế trong suốt 6 năm, mà chánh quyền mới mời ngồi cùng bàn họp!) nhưng nhất là vì chánh quyền đã biện minh hành động của mình, căn cứ trên một “kiến nghị” của một Hội Đồng Tướng Lãnh quân đội qua các phiên họp (chiều 19 cũng như 20-8) yêu cầu chánh phủ hành động (cái kiến nghị đó chính quyền tổ chức cho họ ký!) Hậu quả, của sự vận dụng thiếu sáng suốt đó là chánh quyền đã vô hình kéo trở về chánh trường, một số quân nhân còn nhiều đầu óc phong kiến, mà trong 8 năm trời, khó khăn lắm mới tạo cho họ được một truyền thống quân sự mong manh: tuân theo mệnh lệnh và thi hành mệnh lệnh của uy quyền chính trị?
Như thế chính quyền đã mở đường cho mọi tham vọng và mưu đồ chính trị của một số người mang nhiều bất mãn cá nhân với chính quyền một số người tư tưởng nghèo nàn, ý thức thấp và lương tâm mong manh.
Hơn nữa chính quyền còn tạo cho họ cơ hội “đoàn kết chống lại chính quyền “, khi dồn họ vào chỗ cùng mang một mặc cảm tội lỗi (ký kiến nghị) một cơ hội đoàn kết mà thực sự, tự họ, vì những mâu thuẫn tranh chấp cá nhân, họ không tài nào tạo ra được mà có nhẽ họ cũng không dám hi vọng bao giờ có thể có.
Việc đến đã phải đến, họ đã lật đổ chánh quyền Ngô Đình Diệm. Biến cố ấy, trên lý thuyết, có thể có hại cho VNCH, lợi cho Cộng sản, mà ngược lại cũng có thể hại cho Cộng Sản và rất lợi cho tiền đồ Việt Nam nói chung, và chiến lược chống Cộng Sản nói riêng, tùy theo sự sáng suốt hay ấu trĩ của lớp người lãnh đạo mới. Thực tế đã trả lời chúng ta từ ngày 1-11-63 cho đến hết thời với Nội Các Chiến Tranh Nguyễn Cao Kỳ.
No comments:
Post a Comment