Một buổi sáng thức dậy bỗng
nghe chú Nhứt nói:
- Có hai, ba ông cán bộ R ở nhà
bà Má Bảy.
Tôi và Tám Không lập tức chạy
ra, thì đúng thật. Đó là tổ quay phim của Xưởng Phim Giải Phóng, trưởng tổ là
Hai Nghi đã từng du học bên Đức về . Hắn được giao trách nhiệm giàn dựng câu
chuyện Binh Biến Bình Dương (!). Sau một lúc hỏi han nhau, tôi
và Tám Không ra về. Tám Không rỉ tai tôi:
- Mày biết thằng Nghi xuống đây
làm gì không?
- Thì xây dựng bộ phim “Binh
Biến” chớ làm gì nữa.
Tám Không cười:
- Mày ngây thơ bỏ bố đi !
- Sao?
- Nó xuống theo dõi mày đó.
- Theo dõi tao?
- Chớ còn gì nữa. Mày còn cái
án trên “Lên Ủy Ban Quốc Tê xin về Nam”hồi năm 56, nhớ không? Mày
quên chớ Ban Tổ Chức Trung Ương không có quên cho mày. Nó ghi trong lý lịch
mày, cạo rửa không sạch đâu!
Tôi rùng mình khi nghe Tám
Không nhắc lại vụ lên Ủy Ban Quốc Tế xin về Nam của tôi. Lúc đó tôi làm biên
tập viên Phòng Văn Học Đài Phát Thanh. Ngây thơ nên cứ tưởng cái Ủy Ban ôn dịch
này thi hành Hiệp Định Genève, và Hà Nội cũng sẽ theo đúng những điều khoản đã
ký kết. Chỉ vài tháng sống ở Hà Nội tôi đã không chịu nổi, nên lên đó xin trở
về Nam. Chẳng ngờ tên bộ đội gác cổng là công an. Hắn hỏi tôi muốn gặp Gia Nã
Đại, Ấn Độ, hay Ba Lan? Tôi nói ai cũng được. Hắn hỏi để làm gì? Tôi nói thật.
Hắn bảo bữa nay không có ông nào ở nhà hết, mai đồng chí trở lại gặp. Tôi tin
bằng thật, có nghĩa là chúng nói láo như nhà xuất bản Sự Thật (Pravda)
vậy. Nào ngờ về tới cơ quan thì Ban Giám Đốc Đài, Trần Lâm, Huỳnh Văn Tiếng và
Nguyễn Kim Cương, cho mời lên liền.
Rồi kiểm thảo. Rồi lên đài đọc
bảo tuyên bố “Xuân Vũ không có về Nam!”. Chỉ vài ngày sau báo Sài
Gòn đã đăng tin “Xuân Vũ lên Ủy Hội Quốc Tế xin về Nam bị Hà Nội bắt,
đày đi nông trường” cho nên việc nhỏ trở thành quan trọng. Tôi
bị “ghim” rất nặng. Tôi mới biết Ủy Ban Quốc Tế chỉ là một lũ
ăn hại, nên bên ngoài tôi tích cực công tác “để chuộc tội” nhưng
ngấm ngầm tôi bí mật tìm cách chui rừng về Nam. Có cả ý định nhảy tàu ngoại
quốc ở Cảng Hải Phòng. Mười năm trời, một mặt viết văn viết báo nhưng một mặt
tìm đường chui. Có cả một lần chui đến tận sông Bến Hải nhưng không dám bơi
qua.
Họ chưa quên cái vụ mất lập
trường trên của tôi thật. Bằng chứng là trước khi vô lò quay Trường Sơn, tôi
được tên tổ chức của Lê Đức Thọ, người Khu Nam, kêu lên cảnh cáo:
- Anh nên nhớ cái sai lầm đó !
Về Nam phải tích cực công tác và giữ vững lập trường!
Tôi vâng dạ ngoan ngoãn như con
mèo con. Ngoài ra tôi còn tặng hắn ta bộ đồ com-lê độc nhất và đôi giày da cũng
độc nhất của tôi. Thấy chưa đủ để hắn “quên”, tôi còn bảo hắn lấy xe của Ban
Thống Nhất đưa tôi về nhà. Tôi trỏ tay:
- Đồng chí muốn lấy món nào
lấy.
Quả thật hắn chỉ lấy được vài
món lặt vặt, vì trước đó tôi đã cho thiên hạ hết rồi.
Án tích còn ràng ràng đó, tuy
đã cũ, nhưng nhắc lại thì y như mới. Câu nói của Tám Không chưa chắc đã đúng
nhưng làm tôi rùng mình. Lúc nào tôi cũng bị mật thám theo dõi mà không biết.
Mãi về sau khi tôi đã về Sài Gòn và đang làm Phó Giám Đốc Trung Tâm Chiêu Hồi
Trung Ương, lúc bấy giờ tôi có được một đứa con trai, một buổi sáng chủ nhật,
tôi bồng thằng con sang Sở Thú coi cá vàng. Thằng bé ba tuổi không thích cọp
gấu mà lại thích coi cá vàng. Đang chỉ trỏ cá cho con coi bỗng tôi ngước lên
như có ai mách. Tôi bắt gặp Hai Nghi. Hắn cũng trông thấy tôi. Tôi chưa định
phản ứng như thế nào thì hắn cun cút lủi đi, rồi lẩn vào đám đông.
Thì ra câu nói của Tám Không
hồi mấy năm trước rất đúng. Hai Nghi sang bên Đức ngoài việc học nghề quay phim
còn học ngón do thám. Khổ thay nó lại là thằng bạn thân của tôi trong kháng
chiến chống Pháp.
Thực tình, tôi không có ý định
kêu cảnh sát. Chứ nếu tôi kêu thì cảnh sát bao vây Sở Thú có thể tóm được nó.
Đến bây giờ tôi vẫn không chắc rằng Hai Nghi được cử xuống Bến Tre để theo dõi
tôi.
Trở lại câu chuyện với Tám
Không. Tám Không bảo:
- Gia đình mày có hai phe. Một
phe là mày. Một phe là gia đình mày. Hai phe đối nghịch nhau về lập trường. Tụi
nó không có tin mày đâu. Vì thế đến bây giờ mày mới về Nam được.
Hai phe: đúng vậy! Tía tôi
không thích Tây mà cũng không ưa Việt Minh. Tôi không hiểu tại sao vì lúc kháng
chiến bắt đầu tôi còn là thiếu nhi, nhưng tôi có những bằng chứng. Cống, Trà và
những tên khu tỉnh đều đến ở nhà tôi và được tía tôi tiếp đãi rất trọng hậu,
nhưng khi mời ông đi công tác thì ông từ chối với một lý do rất tức cười “Tôi
không ngủ nhà ai được ngoài nhà tôi thì là m sao tôi xa nhà . . . “
Tây đến đóng đồn Cầu Mống. Tên
xếp đồn bắn tiếng mời tía tôi ra làm việc. Ông trốn biệt trong lúc nhiều vị ra
mặt hợp tác. Tên xếp đem lính tới nhà vây bắt nhưng ông không có ở trong nhà.
Chúng bắt má tôi. Tôi phải “thế mạng”. Tên đội bảo:
- Nếu ông ấy không ra, tao bắn
mày bỏ.
Vào đồn chỉ một đêm, sáng hôm
sau tôi trốn thoát. Rồi cuộc kháng chiến tràn lan. Lính của Một On lấn chiếm.
Nhiều gia đình tản cư xuống khu 9. Nhưng gia đình tôi thì không. Ông không cho
tôi đi kháng chiến nhưng tôi trốn theo cậu tôi.
Sau Hiệp Định Giơ Neo, ông biểu
má tôi vô khu 9 tìm bắt tôi về cưới vợ, không cho đi tập kết. Tôi năn nỉ má tôi
cho tôi đi “hai năm” rồi về. Má tôi biết không cho tôi cũng
trốn đi vì tôi đã làm kháng chiến rồi.
Câu nói của Tám Không chọc
trúng ngay tim tôi. Có lẽ chi ủy xã Hương Mỹ được chỉ thị ở trên theo dõi tôi
kẻo tôi vù ra bót Cầu Mống, mà tôi không biết.
Hai Nghi xuống đây theo dõi tôi
để báo cáo về R? Điều đó cũng có lý lắm nhưng tôi không chắc ! Còn chuyện quay
phim “Binh Biến” thì như sau:
Ở ngay bên cạnh nhà Bà Bảy,
chúng gọi là Má Bảy nhưng thực ra bà không vô Hội Mẹ, là nhà của Trung Sĩ Bùi,
một người lính VNCH mà ở trên nhận định là “một thành viên của cuộc
Binh Biến Bình Dương”. Tôi không để ý đến công việc của tổ quay phim này,
nhưng tôi khuyên họ nên mua thùng đạn đại liên để bỏ máy vô đề phòng có chụp
chạy mang không nổi thì đạp xuống sình. Tuy mới chạy có một cuộc chụp dù nhưng
đối với đám này thì tôi là bậc tiền bối. Tha hồ mà cố vấn về việc chạy, việc
giấu đồ, việc quan sát con đầm già cầm đèn buổi sáng, việc đào hầm cá trê v.v…
Tụi nó phục tôi và Tám Không
bằng sư phụ. Chúng tôi bắt đầu hợp tác xã để liên hoan “mừng chiến
thắng đồng chó ngáp và thoát một trận chụp dù”. Chợ An Định, cũng có tên là
Chợ Cái Quan, sau cuộc chụp chúng tôi họp lại như thường, chẳng khác một hòn
đất ném xuống ao bèo, tan rồi lại hợp ngay. Cũng thịt heo, cá, tôm, dầu nước
xanh, dầu Nhị Thiên Đường, đuôi tôm, máy may… bày ra bán như một thiên đàng mặt
đất. Nghĩ mà thương cho các chợ ngoài Miền Bắc xơ xác, nghèo nàn vô cùng.
Tôi và Tám Không lại gặp Bảy
Quế. Vẫn với bộ râu cá chốt và cái mũ phớt rất thành thị trên đầu. Hắn hất hàm.
- Kỳ rồi chạy đâu?
- Cẩm Sơn, Ngãi Đăng, còn mày?
- Xuống hang trầm.
- Dóc hoài, mày chạy ra Ngã Ba
Ống Quần(*)núp ở đó!
(*) Tức là thị xã Bến Tre
Bảy Quế nháy mắt. ý bảo đừng
làm lộ bí mật công tác quân báo của hắn. Hắn dắt tôi vô tiệm cô sẩm lai mua
sắm. Rồi bảo:
- Tụi mày có muốn đọc sách báo
tụi Sài Gòn không?
- Ở đâu có mà đọc?
- Nhờ cô em này mua dùm cho,
bây giờ coi đỡ vài tờ !
Bảy Quế bảo cô sẩm lấy đưa cho
tôi vài tập san và báo hằng ngày. Giở vài tờ là thấy bài của Vũ Hạnh. Cái bài
tôi đã từng đọc trên R trong chồng báo mục bỏ dưới hầm của tiểu ban Văn Nghệ.
Quái nhỉ! Tôi lại ngạc nhiên về cái tài lòn trôn của bọn văn sĩ theo đóm ăn
tàn. Tụi này luồn qua ống cống nào mà ra Hà Nội nghe lóm Tổng Bí Thư Trường
Chinh nhanh vậy? Lão này nói chuyện ở Câu Lạc Bộ Quân Nhân ở đường Cột Cờ. Mãi
về sau tôi mới biết tên Vũ Hạnh bị sơn đầu đỏ bởi bàn tay sáu ngón của Trần
Bạch Đằng với sự hứa hẹn ngầm:
- Cách Mạng thành công cho ngồi
ghế cao đội mão rộng !
Chẳng ngờ xôi bỏng hỏng không
như bọn Lữ Phương, Thanh Nghị. Chúng coi bọn này như nùi lau chân. Tôi nghi cô
sẩm này là cơ sở quân báo của Bảy Quế, một cơ sở đặt ở đây thì thế nào cũng có
một cơ sở ở đầu cầu trong thành, không biết Bến Tre Mỹ Tho hay chỗ nào khác?
Bọn này thường là đòn xóc hai
đầu. Nó vừa đưa tin cho Bảy Quế vừa đưa tin cho gián điệp thành, mình mó vào
đấy có ngày chết không kịp ngáp. Do đó tôi chạy luôn, không mượn sách báo cũng
không mua đồ ở tiệm này nữa.
Vụ chụp căn cứ tỉnh ủy vừa qua
làm cho tôi cảnh giác tối đa. Một lần em gái tôi lặn lội tới thăm, tiếp tế tiền
bạc, thức ăn, quần áo, giấy bút cho tôi. Lựa cơ hội, cô em bảo:
- Về phức cho rồi anh ạ ! Đi gì
hai mươi năm rồi không tới đâu hết. Tía má già rồi!
Tôi làm thinh. Lòng xúc động
cực độ . Nhưng tôi vẫn cố kềm mình ở lại. Chờ một thời gian nữa. Cô em nói
tiếp:
- Ở nhà má đã tìm cho anh mấy
chỗ rồi. Người ta chờ anh không được lần lượt đi lấy chồng hết. Mấy chị đó
không làm dâu được nhà mình, họ tiếc lắm. Anh đi như vầy ở nhà “mấy
ông” ấp cứ làm khó dễ má hoài. Mấy ổng xin gì má cũng cho, vậy mà cũng
không nhơn tay chút nào. Vừa rồi họ bắt má đi học. Bộ họ không biết anh tập kết
về sao?
Tôi thật tình không đám nói ý
định trốn Cộng Sản của tôi. Càng không lộ cho ai biết những “thành tích” ở Miền
Bắc của tôi. Tôi không nói gì hết.
Mặc dầu vậy tôi vẫn tâm ngẩm
tìm đường trốn. Phải trốn cho được. Nếu đổ bể thì hại cả dòng họ bên ngoại lẫn
bên nội chứ không phải chuyện nhỏ đâu.
Gia đình tôi ít người. Cha mẹ
chỉ có hai đứa con, một trai một gái. Em gái tôi có nhiều nơi xin cưới, nhưng
nó đều từ chối, ở vậy nuôi cha mẹ. Tôi về đây là phải kê vai vào cái gánh nặng
gia đình mà nó đảm trách mấy chục năm nay. Tôi không còn suy nghĩ cân nhắc gì
nữa. Đã từng lội tới vĩ tuyến 17 để phóng qua bờ Nam. Bây giờ đã về Nam. Còn gì
cản trở tôi được nữa? Vấn đề là thời gian và cơ hội. Tuy không tin rằng Hai
Nghi theo dõi tôi, nhưng tôi vẫn gờm gờm, cảnh giác. Một bữa Hai Nghi hỏi tôi:
- Việc vợ con tính sao thì tính
đi chớ. Su hào không cấy, nay ao nhà cũng chê nữa sao?
- Tính gì được mà tính? Mày
thấy đó, trong khu mình đâu có con gái?
Hai Nghi cũng như Tám Không,
không úp mở:
- Để tao gả em gái tao cho !
Nói xong Hai Nghi móc bóp lấy
hình.
- Đây coi đi. Chịu tao gả liền.
Tám Không lên tiếng:
- Tao hứa gả em gái tao cho nó
rồi nghe mậy!
- Thì hễ nó chịu đứa nào nó
cưới đứa nấy.
Tôi tưởng hai thằng bạn nói
chơi nhưng cả hai đều làm thiệt. Hai Nghi nhờ bà vợ của ông Xã ủy đi lên Châu
Đốc móc dùm gia đình. Nghi đã móc gia đình từ trên R ngay sau khi lội Trường
Sơn về tới. Bây giờ nó chỉ đường cho bà Xã ủy rành rọt từng bến xe, con lộ và
lối vào nhà. Bà Xã ủy rất tích cực. Được phân công xách gói đi liền.
Tám Không cười ngất:
- Rủi hai đứa chịu cả rồi làm
sao?
Hai Nghi cũng cười:
- Cho hai cô nương đấu boa
nha, bắn tên hoặc lội đua, chạy bộ thi nhau. Cô nào thắng thì được.
Trong khi chờ đợi tin hồng, Hai
Nghi kể cho nghe về nàng và thân thế gia đình. Hai Nghi là con cả trong nhà. Cô
em thứ Năm và tên Năm. Cha làm giáo học đã qua đời. Có nhiều nơi gắm ghé nhưng
Năm không ưng nơi nào. Vì lấy chồng thì phải là người quốc gia, như vậy
là “chỏi” với anh Hai, làm sao ngồi ăn cơm chung được? Riêng
bà già thì rất thương thằng con trai. Bà nguyện rằng chừng nào Hai Nghi về nhà
được ngồi ăn cơm với ông già thì bà xuống tóc đi tu. Như vậy là hòa hợp với
nhau rồi. Về sắc diện, Năm trên trung bình, nếu không nói là đẹp. Con gái thành
dầu hèn cũng thể. So với gái Hà Nội thời xã nghĩa thì… Hà Nội ôi, đau thương
điêu tàn.
Cô Năm mặc áo dài trắng đứng
bên bụi mai trước nhà. Bông mai nở vàng tươi càng làm cho cô giáo duyên dáng.
Ông cán Mùa Thu thấy chịu quá trời. Hai Nghi phụ nhĩ:
- Con nhớ rất khó tính nghe
mậy. Ngoài ra nó đòi hỏi chồng nó phải có tài. Nó không chịu hạng thanh niên
hoặc những giáo viên ngang hàng với nó.
Tôi cười:
- Vậy thì kể như tao không dự
nổi rồi.
- Sao?
- Tao có tài gì đâu ngoài cái
tài trèo núi và sốt rét?
Tám Không chen vô:
- Giỡn hoài may. Mày còn tài
nhịn đói nữa chớ. Nếu lấy nhau mà nhà thiếu gạo nấu thì mày nhịn cho nó ăn.
Hai Nghi hỏi Tám Không.
- Còn em gái mày thì sao?
- Hễ bên trai đồng ý thì bên
gái gật liền.
- Nó có giống mày không?
- Không! Nó không giống tao
chút nào!
- Sao vậy?
- Giống tao thì ế làm sao? Đây
coi hình nó nè . Đâu có xấu gì cho lắm.
Suốt ngày ba đứa mắc võng dụm
đầu nhau nói chuyện trên trời dưới đất. Hai thằng đều xưng anh và gọi tôi
bằng “dượng”. Nhờ vậy mà cuộc sống cũng đỡ nhàm. Đâu có đề tài gì
để sáng tác. Cải cách ruộng đất theo đảng nhận định là cuộc cách mạng nông thôn
long trời lở đất, nhưng đâu có tác phẩm văn học nào coi cho được. Kể cả ông văn
sĩ thượng thặng Tô Hoài cũng còn không viết được truyện nào nữa là ai ! Rồi bây
giờ đến cách mạng Giải Phóng Miền Nam, có tác phẩm nào thể hiện được nó không?
Dăm bài thơ cóc gặm, và quyển truyện táp nham, sau này tôi có đọc thấy mắc cỡ,
toàn chuyện láo. Do đó mà tôi vứt cả thùng đại liên đựng tác phẩm của tôi viết
về Đồng Khởi mà về Sài Gòn, không tiếc rẻ.
Tám Không chưa dựng được vở
kịch nào. Còn tôi ráng phịa một số chuyện. Không biết bộ phim “Binh
Biến” của Hai Nghi sẽ thực hiện ra sao? Đây xin nói luôn để sau khỏi
mất công. Sau một năm đóng đô ở nhà Má Bảy và điều tra từ trung sĩ Út Bùi đến
ông già bà già của trung sĩ, rồi nghiên cứu luôn cả vợ con của anh ta, Hai Nghi
vác máy không về R với cái kịch bản còn nằm trong bụng.
Hai hôm sau bà Xã Ủy đi về mang
theo vô số đồ ăn và quà cáp. Nhìn đó thì biết sự sung túc của Miền Nam và nền
văn hóa của nó, cái nền văn hóa mà Hà Nội luôn luôn chửi rủa là “cao
bồi, lai căng, phi dân tộc phản khoa học v.v… “
Tôi nhìn những gói mứt me, mứt
ổi, mứt bí, bánh tét, bánh gai, bánh bông lan của gia đình Hai Nghi gởi cho thì
tôi biết được nền văn hóa Miền Nam không cần phải đọc sách. Rồi những cái túi
ni-lông đựng hàng, những chiếc áo thun, áo sơ mi, những cây bút bi, những bánh
xà bông thơm, những túyp kem đánh răng, những thùng xà bông bột giặt đồ, tất cả
đều mang nhãn hiệu Việt Nam. Ngoài ra tôi còn để ý đến cả cách gói, cách đựng.
Những chiếc túi ni- lông có quai xách cẩn thận.
Khi ở Hà Nội, tôi có tiếp xúc
với nhà bác học Lương Định Của, người Sóc Trăng đã từng du học Nhật. Đỗ bằng
tiến sĩ nông học xong về Sài Gòn làm Bộ Trưởng Canh Nông (?) thì êm đời rồi.
Không biết nghe lời ai lại dắt bà vợ Nhật nhảy ra Hà Nội. Tưởng thiên đường ai
dè rơi xuống địa ngục. Bất mãn đầy mình nhưng đã muộn. Sau 1975, đi tàu bay về
Sài Gòn. Vỡ mộng cày cấy đồng ruộng quê nhà . (Tôi sẽ viết rõ ràng hơn vụ này trong
truyện “Mười Năm Mưa Phùn Gió Bấc” đang soạn). Chính ông Của
nói về cái “văn hóa gói đồ”của tư bản cho tôi nghe. Gói đồ cũng là
văn hóa ư ? Mà thật đó là văn hóa.
Văn hóa gói đồ của Hà Nội thì
sao? Bạn vô mậu dịch Đại Bách Hóa Tổng Hợp ở phố Tràng Tiền,
sau khi xếp hàng mỏi rụng giò mới mua được món hàng, nếu may mắn không bị
cảnh “hết hàng”. Thí dụ mua cục xà bông. Cô mậu dịch viên lấy cục
xà bông nguyên xi được cắt tay góc cạnh méo mó ném cái “cộp” trên
mặt quày, rồi lặng lẽ vùa tiền. Ai mua được món hàng đều cũng cảm thấy mất nửa
kí lô thịt trong người, hoặc vừa đầu thai kiếp khác.
Đó là văn hóa mua đồ và gói đồ
của Miền Bắc xã nghĩa mà tôi phải nhớ lại khi nhìn thấy những gói đồ của tụi tư
bản đế quốc Sài Gòn. Thế nhưng nhờ đài Phát Thanh Hà Nội và báo Nhân Dân mà dân
Miền Bắc và thế giới đều“hiểu” rằng dân Miền Nam đang bị Mỹ Ngụy
bóc lột tận xương tủy và.. đói.
(Chuyện lòng thòng nói hoài
không hết, quờ đâu đụng đó độc giả ơi. Tôi sống ở Miền Bắc có mười năm mà nói
cả đời không hết.)
Xin trở lại việc móc gia đình
của ông bạn tôi.
Bà Xã Ủy tự coi như mình đã lập
được một chiến công. Bà mở các món ăn: nem, giò, thịt quay, bánh hỏi, bánh bò,
cả keo tương ớt và tỏi hành ngâm dấm, nói chung là một bữa tiệc đã nấu sẵn. Chỉ
cần dọn ra… ván.
Cả bọn cán Mùa Thu chúng tôi
được ăn ngon, ăn nhiều, ăn đã đời. Nhưng chưa hết. Bà Xã Ủy còn để lại một phần
dành cho ngày mai. Ăn xong chúng tôi được hủ hóa bằng nhiều thứ bánh khéo. Vì
gấp rút gia đình thằng bạn không làm kịp. Đây chỉ là bánh bà mua ở bến Bắc Vàm
Cống. Các thứ này ở toàn Miền Bắc chỉ có một hiệu bán thôi. Đó là hiệu
bánh Bodega ở Tràng Tiền, khu phố văn minh nhất Hà Nội. Nhưng
vẫn xếp hàng rã giò mới mua được… cái bánh kem ! Còn đây là các thứ bánh mà bà
Xã Ủy mua ở bến Bắc trong lúc gấp rút lên xe xuống xe chớ không phải ở thủ đô
Sài Gòn. Màn la-sét bánh xong đến lớp cà phê, thuốc lá Cotab, Ruby
Queen, Nestcafé v.v…
Ăn uống no nê, chúng tôi lên
võng lắc lư tìm hứng với khói thuốc thơm nghe đài BBC hoặc “vọng cổ của
ủy mị của Sài Gòn phản động” . Bà Xã Ủy mới tới tỉ tê với tôi:
- Nhà không giàu lấm, nhưng
thiệt sang. Đồ đạc bóng lộn. Mấy chục năm nay mình toàn ở chòi nên tưởng ai
cũng ở chòi như mình. Cô giáo ngộ như Tiên Nga. Tui thấy tôi còn muốn nữa là
cậu. Tui tới một lát thì cổ đi dạy đạp xe đạp về. Người ta mặc áo dài trắng,
guốc cao gót, gò má thoa son chớ không phải còi cọc như con gái vùng mình. Ở
đây cậu có đốt một chục cây đuốc lá dừa cũng không tìm ra một người như thế.
Cùng với tấm ảnh của Hai Nghi
đưa cho tôi xem, những lời mô tả của bà Xã Ủy làm tôi nôn lắm. Già khú rồi ở đó
mà trông núi này núi nọ. Em út tôi đều trách tôi như thế. Tôi có trông núi nào
đâu, nhưng phải có một sự tương đồng và giao cảm. Có những người con gái vừa
gặp nhau là yêu nhau liền, có những người sống chung cả đời cũng vẫn như hai
thanh sắt đường rầy xe lửa, chạy song song mà chẳng bao giờ gặp nhau. Phải
không cô? Lần này chắc là may mắn. Bà Xã ủy nói liên miên rồi bảo:
- Cậu thiệt khôn!
- Sao vậy chị?
- Cậu biểu tôi lên tới nhà thì
xin phép bác gái đốt một cây nhang trên bàn thờ bác trai. Tôi làm y như lời
cậu. Bà già ngạc nhiên hết sức. Tôi thưa thiệt rằng đó là do cậu dặn, chớ không
phải tôi tự động. Bà già chịu lắm, khen cậu biết lễ nghĩa, đi xa nhà mấy chục
năm mà vẫn còn giữ được phong tục của ông bà. Bác nói hễ anh nó chịu thì bác
chịu. Vậy thì chắc được rồi chớ gì.
Tuy bà mẹ nói vậy mà Hai Nghi
vẫn nhờ bà Xã Ủy đi rước mẹ xuống để coi tôi rồi sau đó mới cho phép Hai Nghi
rước em gái xuống. Thì đã biết ở miền Nam khác miền Bắc xã hội chủ nghĩa như
thế nào. Không phải một tô nước vối là nên vợ nên chồng. Cuối cùng cô giáo Năm
được bà Xã Ủy rước xuống. Lúc này tình hình còn yên ổn, nghĩa là độ một tháng
mới có chụp lớn một lần. Nhờ vậy mà chúng tôi có thì giờ nói chuyện với nhau.
Ban ngày vợ chồng ông Xã Ủy đi làm ruộng. Tám Không đi “tìm đề tài”.
Hai Nghi đi nghiên cứu vụ “Binh Biến”, chỉ còn tôi và cô giáo ở nhà
ông Xã Ủy.
Năm nói chuyện rất có duyên.
Nàng nói liên miên. Tôi cũng vậy. Dường như tương tri với nhau từ kiếp trước
bây giờ mới gặp nhau. Năm thích làm thơ và biết làm thơ nữa. Đêm cuối cùng
chúng tôi thức gần tới sáng, đêm ngắn tình dài. Chúng tôi làm chung những bài
thơ, vẽ chung những tấm bản đồ… Nghe tiếng đò mở máy, tôi xốn xang trong lòng.
Đây là giờ biệt ly.
Tôi và Hai Nghi đưa nàng ra
bến. Hai Nghi nhường cho chúng tôi đi trước. Chúng tôi đi song song trên những
bờ ranh ướt sương, lòng se lại trước phút chia tay.
- Em có lạnh không?
- Không? Cảm ơn anh.
Khi ra đến đường lớn chúng tôi
dừng lại dưới một tàng cây cháy trụi. Tôi ngồi xuống với cớ sửa quai dép cho
nàng để sờ bàn chân của nàng. Đôi bàn chân nhỏ xíu, gót hồng như một cánh sen.
Tôi khẽ bảo.
- Chân em lạnh đây nè !
Nàng vuốt tốc tôi. Tôi bỗng cúi
xuống hôn bàn chân lạnh ngắt của nàng. Chúng tôi đứng lại rất lâu. Đò máy đã
rúc còi lần thứ ba. Không còn thì giờ nữa. Bỗng nhiên Hai Nghi quay lại bất ngờ
bảo:
- Bữa nay khách đông quá, trở
lại. Mai mốt sẽ đi.
Chúng tôi ngoan ngoãn nghe
theo, quay lại chòi. Bà Xã Ủy nói oang oang:
- Tui có ý kiến như vầy. Cậu
Nghi có nghe thì nghe, không nghe thì thôi đừng rầy tội nghiệp nghen.
- Chị nói đi.
- Tôi thấy hai bên xứng đào
xứng kép quá chời rồi. Một bên là cô giáo một bên là nhà báo.
Thời buổi chiến tranh này, có nhiều ông Mùa Thu về tới nơi bà già cưới vợ dắt
xuống cho chớ không có coi tới coi lui gì hết. Vậy mà cũng vui vẻ chớ có sao
đâu. Cậu Vũ và cô Năm đã tìm hiểu mấy ngày rồi. Bên cô Năm thì có anh trưởng
nam gia đình, còn bên cậu Vũ thì có ông nhà tôi đại diện đảng chủ hôn. Lấy chòi
tôi làm địa điểm đám cưới. Vợ chồng tôi sẵn sàng tản cư cho vợ chồng mới muốn ở
mấy ngày thì ở.
Hai Nghi nói:
- Tụi tôi thì dễ rồi, nhưng
phải có ba má đôi bên cho phép.
- Nếu vậy thì tôi lên Châu Đốc
rước bà già cậu xuống, xuống Cầu Mống rước bà già cậu Vũ lên, khó gì!
- Vùng tôi ở khó đi lắm chị ơi!
- Tại sao?
- Má tôi ở ngoài vườn, chị đi
vướng lựu đạn gài của mấy ông mãnh chết!
- Cậu sợ chớ tôi thì lên trời
tôi cũng không ngán. Hai cậu có ý kiến gì nữa không? Hay là tôi dắt cô Năm
xuống Cầu Mống rồi mời bà già vô. Hai cậu muốn cách nào tôi phục vụ cách đó.
Tôi không đòi ăn đầu heo đâu mà sợ, chỉ xin uống một hớp rượu đám cưới thôi.
Hai Nghi nói:
- Để tôi tính. Chị làm nôn quá
tôi rối trí!
Đêm đó tôi và Hai Nghi bí mật
bàn với nhau. Cuối cùng hai đứa thống nhất ý kiến: ngày mai dắt cô giáo về quê
ngoại tôi ở Cẩm Sơn trình diện.
—>Chương 13
- 13 -
Sáng sớm thức dậy ăn bánh dừa
uống trà rồi sửa soạn khởi hành. Cô giáo phải bỏ lốt thành thị khoác áo giải
phóng. Áo bà ba đen, quần đen, nón lá mà Năm đã chuẩn bị từ nhà để ra khu thăm
anh, vai mang ba lô, làm cán bộ.
Bà Xã Ủy ngắm nghía rồi cười:
- Coi xứng quá trời.. Vợ chồng
cán bộ đi công tác.
Thế là cuộc hành quân bắt đầu.
Ở trước chòi, cái bờ ranh có một khúc đứt. Tôi lội qua trước rồi quay lại đưa
tay kéo nàng. Bỗng bà Xã Ủy la lên:
- Khoan đã ! Cái bắp chuối cô
Năm trắng quá , không được! Phải lấy bùn bôi vô.
Cô giáo giật mình buông hai ống
quần xuống và đứng ngơ ngác không biết làm gì. Tôi trông thấy đôi chân người
đẹp quả là “ngọc túc”. Nếu không có ai ở đây tôi sẽ hôn mỗi chân
một cái rất say đắm. Tôi có lánh nhát gái mà lại !
Hai Nghi thấy em ngượng ngùng
bèn bảo:
- Em đừng xăn quyền lên nữa. Cứ
để tự nhiên như thế.
Chúng tôi đi một mạch xuống tới
Cẩm Sơn. Tôi dắt thẳng đến nhà cậu Ba rồi nhà ông Nhứt tôi. Ông Nhứt lẫn cậu mợ
tôi đều bảo:
- Con nhỏ coi được lắm!
Ông Nhứt còn hứa:
- Nếu má cháu không lên được,
ông đại diện đàng trai cho! Hoặc ông sẽ lên Châu Đốc nói chuyện với đàng gái!
Cán bộ Mùa Thu cưới vợ còn khó
hơn Lưu Bị sang Giang Đông làm rể! Trên đường về nàng cứ hỏi tôi:
- Khu giải phóng như vầy sao
anh?
- Nghĩa là sao?
- Em đâu có thấy cái nhà nào.
Toàn chòi là chòi.
- Trước cách mạng, vùng này
cũng như những nơi khác nhà ngói nền đúc rất đông, nhưng từ khi cách mạng nổi
lên, nhà ngói bay hết ngói, còn nhà nền đúc sụp luôn.
Hai Nghi tưởng tôi nói hớ, bèn
bẻ lái:
- Đó là do bom đạn Pháp và Mỹ
phá hoại đó chớ.
Tôi cứ nói rấn tới.
- Nếu nhà em mà ở vùng giải
phóng thì cũng vậy thôi ! Cách mạng tiêu thổ kháng chiến tới hai lần. Lần trước
còn sót cái nền nhà. Lần này cả nóc lẫn nền đều bay hết.
Hai Nghi biết không thể sửa mũi
mấn tôi được bèn lảng sang chuyện khác. Về tới chòi bà Xã Ủy thì trời chiều.
Ông Xã Ủy vừa giở chà bắt được một mớ tôm. Ông bảo vợ làm món tôm nhúng dấm
cuốn bánh tráng. Tôi ngồi bên cạnh nàng. Chúng tôi hãy còn giữ thế với nhau.
Nhưng bà Xã Ủy thì cứ bô bô cái miệng:
- Cưới hỏi nhau rồi, ông nhà
tôi sẽ phụ giúp cất cho cái chòi. Rồi nuôi vịt nuôi gà. Có chụp dù thì chạy.
Ối, ở đây chụp dù như cơm bữa. Có chết chóc gì đâu.
Khuya hôm đó tôi lại đưa nàng
ra đò. Tôi nắm tay đưa nàng lên tấm ván dài rung rung bắc từ bờ lên mũi đò .
Nàng dừng lại. Tôi đưa tay nàng lên môi hôn rồi- hôn lên má nàng. Tôi muốn hôn
môi nàng nhưng nàng ngăn lại, thầm thì:
- Để dành anh ạ !
Đò đã đông nghẹt, nhưng khách
còn ào ạt xuống. Dân giải phóng toàn đi chợ tính thành. Tôi và Năm vẫn đứng ở
mũi đò, tay trong tay không muốn rời. Không biết phải nói những gì với nhau
trong phút chia tay. Tôi chỉ bảo nàng
- Em về nhà kính lời anh thăm
bác và đốt dùm anh cây nhang trên bàn thờ bác trai.
Nàng nói với một giọt lệ trong
khóe mắt.
- Kính lời thăm má và
đốt nhang trên bàn thờ ba chớ không phải đốt dùmvà bác
trai !
Người tài công đến mở dây đỏi
sửa soạn cho đò rời bến. Tôi đành bước lui để anh ta rút tấm đòn dài, chiếc cầu
Ô Thước của Ngưu Lang Chức Nữ thời đại trực thăng vận. Tôi bước nhanh xuống và
quay lại nhìn mũi đò quay ra, vẫy tay. Tay nàng như cành hoa huệ trắng xa dần
rồi lẫn vào đám đông. Tôi thầm tiếc đã hôn nàng quá ít. Một tiếng thầm thì bên
tai tôi.
- Hè sau nó sẽ xuống !
Tôi nhận ra Hai Nghi. Hai Nghi
lôi tay tôi. Chiếc đò đã ra giữa sông. Chân vịt quay tung nước trắng xóa sau
lái, nát lòng kẻ đứng trên bờ lẫn người đi. Năm sau, nghe chừng lâu quá và có
gặp nhau nữa chăng?
Ôi cái cảnh biệt ty sao mà buồn
vậy? Câu văn đơn sơ nhưng thấm
thía vô cùng của lớp Đồng Ấu bỗng bừng dậy trong lòng tôi. Và một bài hát xưa
lại trở về tâm trí như có ai khẽ hát bên tai tôi:
Theo gió thuyền xuôi, sóng đưa bè trôi
Tiếng đàn trầm trầm, man mác lòng tôi
Nhìn con thuyên xa bến, lòng tôi càng lưu luyến
Hát khúc chia ly cho trái tim não nùng đôi chút
Cho tiếng tơ thêm càng reo rắc
Tiếng đàn trầm trầm, man mác lòng ai
Non nước trời mây cách xa từ đây
Ta khóc biệt ly, khóc cho người đi
Không còn ngày về chia mối tình si.
Đây là bài hát “Thuyền
Xa Bến” của Dzoãn Mẫn mà thời kháng chiến chống Pháp tôi đã thuộc lòng
và cũng là bài ruột của tôi. Thời đó nào biết yêu nào biết chia ly nhưng cũng
thấy nó hay thì bây giờ càng thấy hình như tác giả sáng tác bài này cho tôi.
Thiệt là não nùng.
Hai Nghi cứ nhắc lại câu như
điệp khúc của bài hát:
- Năm sau, mùa nghỉ hè là sẽ
gặp nhau rồi tính.
Với sự hậu thuẫn của Hai Nghi,
cuộc hôn nhân được mọi sự thuận lợi. Không có một trở lực nào nữa, ngoại trừ
tình hình giặc giã. Nhờ cơ sở quân báo của Bảy Quế mà tôi nhận được thư của Năm
luôn. Trạm giao liên là quán cô xẩm lai ở chợ. Quả thật tôi đoán không sai. Bảy
Quế đã móc với hai Tịnh, trưởng quân báo tỉnh và là người Cầu Mống bạn học cũ
thời đồng ấu của tôi. Do đó cứ một tuần hoặc mươi ngày tôi đến trạm cô xẩm nhận
thư hoặc gởi thư. Tin nhạn đi về không dứt. Nàng làm thơ, ký tên tắt là B, gởi
cho tôi.. Tôi cũng làm thơ đáp lại, ký tắt là K, gởi cho nàng.
Thời kỳ này tôi tạm gác những
dự định về tiểu thuyết Đồng Khởi vì bận làm thơ. Tình hình quá căng thẳng, cứ
sáng thức dậy là ngồi ngóng con đầm già . Nếu
nó xách đuốc đi soi vùng khác thì mới yên tâm ngày đó mìnhh
còn sống. Có khi suốt buổi sáng êm ả, nhưng chiều lại bị chụp. Có khi chạy liên
hoàn hai ba ngày không về được nhà. Do đó tôi phải chuyển qua làm thơ. Khi nào
yên ổn thì lẩm nhẩm trong bụng rồi tối về mới ghi ra. Tôi đã làm xong một tập
thơ tên là “Bến Tre Xanh Mãi Bóng Dừa” gồm cả ngàn câu song
thất lục bát. Tôi đem cho tỉnh ủy để họ điện về R, để chứng minh rằng ông có
hoạt động chớ không phải nằm ỳ, ngâm cứu dưới hầm cá trê như bọn tỉnh ủy.
Tập thơ này về tới khu II tức
chiến khu VIII của Trần Văn Trà hồi kháng chiến. Nơi đây một thằng bạn nối khố
của tôi, thi sĩ Lê Nguyên tức Lê Xí, tiếp nhận một cách nồng nhiệt. Hắn cho
đánh máy ra thành nhiều bản để phổ biến vì nhà in của Khu bị lính Sài Gòn “mượn
tạm” vô thời hạn rồi. Chuyến băng đồng chó ngáp năm trước của tôi bị
ngưng và tôi phải lội hai lần cánh đồng ấy chính là vì cuộc chụp dù bóc đi cái
nhà in này. Vài bài thơ xướng họa của hai đứa tôi còn nhớ, tạm ghi ra như sau:
HOA ĐỨNG MỘT MÌNH
Một đóa hồng tươi đứng giữa vườn
Đọng giữa lòng hoa một hạt sương
Bỗng trận Mưa Xuân đâu chợt đổ
Hoa nghiêng cánh hứng giọt sầu vương
Rồi con bướm nhỏ từ xa tới
Làm hoa thêm sắc đậm thêm hương
Từ đó hoa không cô độc nữa
Trong lòng nghe dậy nhạc yêu đương.
B.
Bài thơ được ướp nước hoa. Một
sợi tóc bao quanh bài thơ với dòng chữ:Tặng anh “sợi tóc người xa”, đó
chỉ là
nét vẽ của nàng, còn sợi tóc thật thì không bao giờ tới.
TÓC EM
Tóc em một ngọn cỏ thơm
Giữa lòng ai mọc chập chờn hương say
Tóc em một đóa vân bay
Cho anh buộc cuống tim này vào em
Tóc em một chuỗi hạt huyền
Cho anh buộc bến, buộc thuyền vào nhau
Tóc em một sợi tơ đào
Bao nhiêu sóng gió cuốn trào hồn ai
Sắc màu nhạt, tóc không phai
Anh đem nối lại cho dài anh ta.
K.
KHÔNG ĐỀ
Trong lòng dường có bụi gai
Nghiêng qua gai sẽ móc trầy trái tim
Trong tim dường có mũi kim
Trở mình kim chích nằm yên được nào
Trong lòng như có lưỡi dao
Mỗi lần tim bóp nghe đau vô ngần
Trong tim dường có chuông ngân
Như ru ba tiếng (… ?) như gần như xa
Gọi tên ai ấy tên ta
Giữa hai lần đập, chính ta gọi chàng
Tiếng tim trăn trở mơ màng
Canh chầy thao thức chắc chàng gọi ta…
B.
CÁI HÔN
Cho anh hôn gót chân ai còn dính đất quê hương
Cho anh hôn tóc ai mùi xoài cam ổi chín còn vương
Cho anh hôn đôi má ai rám nắng miền quê ngoại
Cho anh hôn đôi môi ai còn ngọt ngụm chanh đường
Cho anh hôn mũi đò in dấu chân em đẫm nước
Cho anh hôn bờ ranh đứt, cỏ ướt mù sương.
K.
Trong một lá thư tôi có viết
cho nàng: “Khi em trở lại quê anh, em hãy gói đem xuống cho anh một hòn
đất quê mình em nhé!” Nàng viết thư hỏi tôi:
Quê em mênh mông, có kinh Vĩnh Tế
Có núi Thất Sơn, có đền Bà Chúa
Có trái bần khô khỉ bạc đầu (*)
Có lăng của Thoại Ngọc Hầu
Em biếtt hòn đất nơi đâu mà tìm ?
B.
(*) Một vài câu trong bài thơ
cổ, nàng trích ra trong quyển sách ca tụng Thoại Ngọc Hầu.
Tôi đáp:
Nơi nào em đứng,
Thì nơi đó là quê hương yêu dấu của anh.
Ít lâu sau, tôi nhận được một
gói nhỏ và một phong thư trong đó có câu thơ:
“Gởi anh hương vị quê hương
Kết tinh của cả tình thương nồng nàn. “
B.
Tôi mở ra vài lần giấy bọc,
tưởng là hòn đất Quê Hương yêu dấu, nhưng không phải. Đó là táng đường Thốt
Nốt, mà nàng bảo là Thốt Lốt. Táng đường nhỏ nhắn màu nâu như đất, nặng như
tim, trong chiến dịch Long Châu Hà năm 1951 mà giờ đây tôi mới được nếm vị ngọt
Quê Hương.
Kèm theo thư và thơ còn có
những tấm hình màu: Đền Thờ Bà Chúa Xứ Châu Đốc, cảnh sông nước miền Tây, và
chiếc lồng chim với chú chim lạ.
Nàng chú thích rất rõ từng tấm
một: Ngôi đền ở chân núi Sam thờ Bà Chúa Xứ rất linh thiêng hằng năm dân chúng
khắp nơi đến cầu nguyện và xin ơn của Bà. Để khi có dịp, em sẽ dẫn anh đến
viếng đền.
Cảnh sông nước miền Tây – Đây
là sông Cái Cối Bến Tre. Em nhờ người bạn mua dùm để em tặng nhìn cho đỡ nhớ
nhà .
Còn ảnh chiếc lồng chim: Đây là
con Yểng rất khôn, biết nói. Em cất nó trong nhà để nó chỉ nghe tiếng người và
quên tiếng chim. Em đã dạy nó nói được hai tiếng “Chào anh!” Em sẽ tập nó nói
“Chào anh yêu mến”.
Tôi đưa cho Hai Nghi xem. Hai
Nghi lấy làm thích thú.
Hắn nói:
- Cô giáo mà có lai thi sĩ!
Tôi bèn viết ngay bốn câu thơ:
Uớc gì anh được làm chim
Sống trong lồng sắt trái tim một “Bà”
Tôi đưa cho Hai Nghi đọc. Đọc
xong, hắn bảo.
- Bài thơ này hay nhất là
chữ Bà.
- Tại sao?
- Mày viết ra mà còn hỏi. Bà
nào?
- Bà Chúa…! Mày cũng có Bà. Tao
cũng có một Bà. Mỗi thằng đều có lỗ trên đầu để cặm nhang thờ Bà, hà hà …
Tình hình càng lúc càng căng
thêm. Các đại đơn vị Sư Đoàn 7 và Sư Đoàn 9 Bộ Binh Sài Gòn phóng những mũi lao
ác liệt vào vùng giải phóng. Sau khi càn, các đội Bình Định tới chiêu an dân
chúng rồi địa phương quân đóng đồn. Trước tình hình bi đát này, tổ tam tam
chúng tôi tan rã . Mỗi đứa đi một nơi. Hai Nghi vác máy về R bỏ lại cái bộ
phim “Binh Biến”.
Tôi và Tám Không cũng chia tay
nhau. Tám Không hết hạn thăm nhà một năm rưỡi nên phải quảy ba lô đi miền Tây
nhập đoàn với văn công của ông Ba Nha. Tám Không phịa sáu cá i tựa kịch
là Trăng Giải Phóng, Nước Giải Phóng, Mặt Trời
Lên ở Hướng Này… nhưng chỉ là những cái tên, còn màn lớp thì chưa… dựng. Ai
diễn mà dựng?
Tôi còn ở lại nhà chú Nhứt một
mình, buồn vô hạn. Nhưng buồn không bằng sợ. Sợ bị chụp dù không có bạn để chạy
chung, rủi bị thương không ai biết sẽ chết dọc đường. Thời may có anh Tư Mô
người hùng của R đến.
Tư Mô là người Bến Tre, thi sĩ
kiêm văn sĩ, kháng chiến từ 45 . Năm 1954, khi Một On Le Roy chiếm đóng toàn
tỉnh Bến Tre thì anh dắt vợ cõng con chạy vô miền Tây . Vợ làm kẹo dừa bán cho
anh đi bỏ mối các quán lấy tiền sống đắp đổi ba, bốn năm liền. Sau 54 anh về
thành viết văn rất nổi tiếng. Không biết tại sao đang ở Sài gòn mà lại ra khu
làm công tác tuyên huấn cho Trần Bạch Đằng. Khi tôi về tiểu ban Văn Nghệ thì
hai anh em xin đi công tác Bến Tre để sưu tầm tài liệu Đồng Khởi. Về đến tỉnh
nhà anh vọt qua Cù Lao Bảo thăm nhà, nhưng quê nhà bị lính đóng đồn. Anh bèn
trở qua Cù Lao Minh gặp tôi. Đúng là kẻ thắt ruột thương người ruột thắt, mắt
châu rơi khóc mắt rơi châu.
Anh bảo tình hình bên Cù Lao
Bảo cũng không yên ổn. Hai đứa bèn chung tay với nhau đào một cái hầm cá trê ở
gần bờ rạch Cái Chát Nhỏ thuộc xã An Thai. Nhưng xui quá, đào gần nửa đêm uống
hết ba bình tích trà đậm nhãn hiệu Con Khỉ Hộc Máu thì đụng
nhằm một tấm ván. Hai đứa hè hụi với nhau cả buổi mới lôi được tấm ván lên. Rọi
đèn pin xem mới hay đó là tấm ván hòm. Hai anh em sợ quá bèn bỏ luôn.
Từ đó hai anh em sát cánh với
nhau như hình với bóng trong lúc ngủ nghê, chạy ruồng, hoặc hàn huyên chuyện cũ
Anh luôn luôn giục tôi cưới vợ. Nhưng có ai ở đây mà cưới. Anh bảo là khi nghe
tôi sắp về tới, anh có ý cáp đôi tôi với một đứa cháu bà con của anh đang làm
cán bộ của tỉnh ủy. Nhưng khi về đến nơi thì anh mới té ngửa ra. Con nhỏ có
bầu, phá thai rồi lại có bầu lần nữa. Khi anh về nhà thì cô nàng lại đang phá
thai.
- Mặt mũi nó tôi không còn nhận
ra nữa chú ơi ! … Bây giờ chuyện đã như vậy, tôi cũng không muốn cho chú biết
làm gì. Cái bụng của tôi đối với chú là như vậy đó.
Tôi bèn kể chuyện cô Năm cho
anh nghe. Nghe xong anh bảo:
- Thời này không mơ mộng được
đâu chú ! Cái gì cũng phải thực tế. Cưới rồi ở đâu, ăn gì để sống, tiền đâu
xài, khi ốm đau, vợ đẻ ở nhà thương nào, con nuôi cách nào, bom bỏ cà nông thụt
có hầm trốn không? Hồi ở khu 9 chú thấy vợ con tôi khổ sở vậy đó. Nên rút kinh
nghiệm đi chú .
Một hôm hai anh em ghé nhà ông
Xã Ủy. Bà Xã Ủy cũng bô bô cái miệng.
- Tôi còn giữ một mớ đồ của cậu
Nghi, không biết cẩu ở đâu mà giao lại.
- Bộ chị đi lên nhà nó nữa hả?
- Bà già dặn tôi đầu tháng trở
lên để bà gởi cho cẩu và cậu. Tôi trở lên đem về cả đống đây, sợ bị chụp không
biết giấu ở đâu. Trời ơi trời, cậu Vũ mà vô đó thì kể như chuột sa hũ nếp. Coi
tình hình êm êm thì cưới cho rồi. Về đây ông nhà tôi cấp đất cho làm.
Nói xong bà lấy đưa cho tôi một
gói nhỏ. Tôi khui ra.
Đó là một cánh hoa hồng ép, một
sợi tóc dán trên trang giấy hồng và một bài thơ. Nhiều chữ bị nhòe, nhưng vẫn
còn đọc được.
Trời ơi ? Lửa Lòng tôi
mong thời gian và sự xa cách sẽ dập tắt đi, nhưng không, ngọn lửa lại bùng cháy
mãnh liệt hơn. Nhưng làm sao? Cách nhau chừng 150 cây số, mà không phương gì
biết tin nhau được. Tôi lẩm bẩm mấy câu thơ định gởi nàng, nhưng rồi không gởi
được. Tôi bỏ trong ba-lô bữa sau bị chụp đem nhận xuống mương.
Vừa chạy đua với trực thăng vừa
làm thơ tình, độc giả có ớn không? Bản tình ca bắt đầu là nhịp đi hùng
tráng: Tempo di Marcta, đoạn cuối thì Rumba TTKH.
Đó là công thức muôn thuở của
mọi khúc tình ca:
Nếu biết rằng tôi đã “lấy” chồng
Trời ơi người ấy có buồn không ?
Năm 1968 sau khi tôi trở về Sài
Gòn, tôi được mời đi nói chuyện ở rất nhiều nơi, trước nhiều đối tượng, dân sự,
quân đội, trong đó có thể kể ra như sau: toàn thể sĩ quan của Sư Đoàn 25 Bộ
Binh, Sư Đoàn Công Binh, các tỉnh Đà Nãng, Mỹ Tho, Bến Tre, Gò Công v.v… Một
bữa sau khi chấm dứt cuộc nói chuyện ở Gò Công, tôi vừa bước xuống khán đài thì
một sĩ quan đến vỗ vai tôi, hỏi:
- Triết phải không? Tôi là Ngôn
học Trung Châu nè .
Tôi ngẫm nghĩ một lúc mới nhớ
ra.
- Mời anh về nhà chơi.
Rồi nắm tay tôi lôi đi tới một
chiếc xe jeep đậu gần đó. Tôi liền thấy quân hàm của Ngôn là thiếu tá. Chiếc xe
do một thiếu úy lái chạy đến một biệt thự. Viên thiếu úy bước xuống mở cửa xe.
Thiếu Tá Ngôn mời tôi xuống. Qua cách xưng hô của các vệ sĩ, tôi biết được Ngôn
là quận trưởng.
Ngôn vui vẻ :
- Mời anh ở lại dùng cơm chiều
với vợ chồng tôi.
Chúng tôi ngồi ở phòng khách.
Ngôn nhắc lại những kỷ niệm thời trung học.
- Cháu vào mời cô ra có khách
đặc biệt!
Ngôn bảo cô gái giúp việc vừa
đem mâm trà ra. Ngôn vừa rót mời và khen câu chuyện của tôi trình bày rất hấp
dẫn: Không có vẻ gì chính trị cả mà lại rất chính trị. Chắc nhiều người phải
sáng mắt ra. Tôi vẫn mang cái mặc cảm của một kẻ lầm đường nên ngồi nghe hơn là
nói. Còn Ngôn thì cứ nói thao thao và giục tôi uống trà hai ba lần. Tấm cửa
buồng bằng trúc bỗng rung động, rồi một người đàn bà vén màn bước ra. Tôi suýt
kêu lên.
Bà ta cúi đầu chào rồi ngước
lên nhìn tôi. Bà sững sốt. Ngôn bảo.
- Em ngồi đây! rồi mình hỏi
chuyện anh Hai.
- Em… em… vô xem sắp nhỏ nấu nướng.
Người đàn bà nói xong quay vào
ngay. Tấm mành trúc rung động và khua như một điệu nhạc lạ lùng vang động cả
tâm can tôi. Ngôn nói:
- Chúng mình xa nhau trên hai
mươi năm. Gặp nhau thật bất ngờ. Nhân dịp này tôi muốn hỏi anh là nhà văn chắc
có quen nhiều văn nghệ sĩ trong khu R.
- Dạ tôi cũng biết nhiều nhiều.
- Vợ tội có người anh ruột đi
tập kết. Nghe bà nhạc tôi nói anh đó về trong này rồi. Bà nhạc và vợ tôi có vào
trong khu thăm vài lần vào năm 1963, 64 chi đó. Rồi bặt tin luôn vài năm nay.
Không biết ảnh hiện nay đi đâu mà không thấy cho người về.
- Anh ấy làm gì trong khu ạ ?
- Ảnh soạn kịch hay đạo diễn gì
tôi không rõ.
Ngôn đứng dậy bước vào trong
một chốc rồi quay ra, bảo.
- Vợ tôi nói là ảnh quay phim.
- Quay phim thì đông lắm, không
biết anh nhà là cán bộ được đào tạo trong này hay từ Bắc về.
Tôi quên Ngôn vừa nói là người
anh đi tập kết. Ngôn lại vào rồi trở ra.
- Ảnh từ Bắc về . Tên là Hai
Nghi. Nhà tôi thứ Năm, ảnh thứ Hai.
- Hai Nghi?
Ngôn hỏi to vọng vào trong:
- Anh Hai tên là Hai Nghi phải
không em?
Tiếng nói từ trong vọng ra.
- Dạ. Hai Nghi. Ảnh có sang bên
Đức.
- Có, tôi biết Hai Nghi từ
trong kháng chiến và trước khi vào Nam gặp nhau ở trường đi B cùng lội Trường
Sơn. Khi xuống Bến Tre thì chúng tôi lại gặp nhau vài lần…
- Ảnh còn khỏe không ạ?
- Dạ trước khi tôi về Sài Gòn
vài năm tôi không nghe tin tức về anh ấy nữa.
Bữa cơm hôm đó thật thịnh soạn.
Ngôn rót rượu mời, chúc mừng tôi, và tỏ ý tiếc rằng phu nhân không ra dùng bữa
với khách.
- Đáng lẽ hôm nay vợ chồng tôi
cùng dùng cơm với anh trong dịp vui gặp bạn cũ này, nhưng có lẽ nghe nhắc tới
người anh trai nên vợ tôi buồn. Cô đang khóc và xin phép vắng mặt.
Tôi ngồi lặng thinh cố kềm đôi
đũa cho khôi rum và giữ vẻ mặt bình thường. Ăn xong, tôi lấy cớ có việc với
đoàn thuyết trình nên nhờ Ngôn đưa về khách sạn. Bỗng thấy tấm hình ông già
trên bàn thờ, tôi nhận ra nét quen quen bèn hỏi Ngôn:
- Xin lỗi, bác mất đã được bao
lâu rồi anh?
- Dạ, đây là nhạc phụ của tôi,
còn thân phụ tôi hãy còn tại đường.
- Xin phép anh cho tôi đốt cây
nhang trên bàn thờ bác.
Tôi nhớ Hai Nghi hao hao giống
nên mới hỏi anh.
- Cảm ơn anh. Anh cứ tự nhiên.
Ngôn nói và lấy hộp diêm đưa
cho tôi. Tôi đốt nhang cắm vào lư hương và cúi đầu. Ngôn nhìn tôi với vẻ ngạc
nhiên:
- Anh đi xa nhà lâu quá mà vẫn
còn nhớ lễ nghi phong tục ông bà ! Thật là đáng quí.
Ngôn đưa tôi ra xe. Viên thiếu
úy đã mở máy. Tôi bắt tay Ngôn, lưu luyến. Sắp bước lên xe thì thấy một người
đàn bà ẵm một đứa bé đi ra. Ngôn vẫy tay:
- Hoài Xuân ? Con ra ba bảo.
Người đàn bà đi nửa đường rồi
dừng lại thả con xuống chứ không đi tới nữa. Thằng bé lốc thốc chạy một mình.
Ngôn bế con lên.
- Con bắt tay từ giã bác đi
con.
Thằng bé đưa tay ra. Tôi nắm
lấy và hôn lên má nó.
- Cháu ngoan quá . Lâu lâu cháu
nhớ đốt dùm bác một cây nhang trên bàn thờ ông ngoại nghe.
- Dạ.
Tôi biết câu nói đó đối với nó
là vô lý. Nhưng tôi đâu nói với nó. Tôi buông tay thằng bé, bước lên xe, trái
tim dường có chuông ngân.
Xe vọt tới, xốc lên mấy cái
quanh sang bên phải. Tôi không quay nhìn lại mà vẫn thấy người đàn bà, thấy lại
nàng như đứng ở mũi đò năm nào, bàn tay giơ lên vẫy trắng như hoa huệ..
Hoài Xuân! ôi tình yêu! Đau Khổ
và Hạnh Phúc. Ơn trên đã dành cho tôi cái ngõ cụt nào? Không biết. Nhưng chắc
chắn cuộc hôn nhân bất thành là điều may mắn cho nàng vậy.
—>Chương 14
- 14 -
Tư Mô có bệnh mất ngủ. Mỗi đêm
anh phải uống vài viên Tranquinol mới chợp mắt được. Nhiều đêm tôi đánh một
giấc thẳng thét, thức dậy nghe anh vẫn còn thao thức. Vào lúc nửa đêm mồng hai
Tết Mậu Thân, bỗng anh đập tôi dậy:
- Chú Hai ơi ! Mình làm ăn to
rồi, dậy nghe đài BBC.
- BBC gì phát vào nửa đêm?
- Bản tin đặc biệt!
Nói xong anh vặn đài to lên.
“Quân Việt Cộng đồng loạt tấn
công mười lăm đô thị Việt Nam Cộng Hòa, trong đó có thủ đô Sài Gòn, cố đô Huế,
Đà Nẵng. Ở đồng bằng sông Cửu Long các thành phố lớn cũng bị tấn công. Đó là từ
thị xã Mỹ Tho, Cần Thơ, Long An. . . “
Cả nhà ông Xã Ủy thức dậy. Mọi
người bàn tán xôn xao tổ về phấn khởi. Chỉ có bà ngồi im. Rồi mặc cho tiếng nói
từ đài vang ra ồm ồm, bà ngúyt ngang:
- Tui hổng có tin cái đài mắc
dịch này đâu.
Tư Mô hỏi.
- Sao vậy chị?
- Nó nói “xịa” không
hè.
- Nó nói theo phe mình đó chị à
!
- Tui đi thành mấy chuyến rồi,
tôi thấy Quốc Gia mạnh lắm, mình lấy gì mà tấn công nổi mấy chục thành phố?
Ông luôn luôn là “tiểu
đội phó” của bà nhưng lần này thấy bà vợ mất lập trường quá lắm, ông
không dám “chỉnh nhẹ bà tiểu đội trưởng” chỉ nói bọc xuôi nhè
nhẹ rồi gợi ý:
- Bà nấu cháo trắng ăn với muối
quẹt để anh em tụi tôi bắt tin nghe chơi.
Từ chiếc đài giọng nói lại oang
oang:
Bản tin đặc biệt: Quân Bắc Việt
đã vô tới cửa ngõ Sài Gòn. Tân Sơn Nhứt bị tấn công. Quân Việt Nam Cộng Hòa bỏ
trại đi ăn Tết bị tấn công bất ngờ nên lúng túng chống trả. Tin vừa nhận được
cho biết thị xã thứ 26 của Việt Nam Cộng Hòa đã bị tấn công. Đại Sứ Mỹ đã điện
về Hoa Thịnh Đốn nhưng chưa có chỉ thị của Tổng Thống Nixon.
Tin mới nhất cho biết thị xã
Bến Tre mà Việt Cộng gọi là quê hương Đồng Khởi cũng bị tấn công. Quân ông Thọ
đơn độc chiến đấu, không có quân Bắc Việt giúp đỡ nên chỉ đánh vòng rìa thị xã
không vào được bên trong.
Thị xã Châu Đốc, thị xã thứ 27
cũng bị tấn công nhưng rất yếu ớt. Châu Đốc là một trong vài tỉnh có dân số Hòa
Hảo đông đảo nhất. Họ vốn căm thù Cộng sản nên Cộng sản không gây được cơ sở,
ngược lại còn tự động chống Cộng. Do đó cuộc tấn công đã bị dập tắt ngay trong
vài tiếng đồng hồ. Hiện quân VNCH đang phản công ở thị xã này. Rất đông lính
Cộng sản bị bắt sống ở gần Đền Bà Chúa cách thị xã 5 cây số về phía Bắc.
Thị xã Long An là thị xã thứ 28
bị tấn công. Quân ông Thọ ở đây khá mạnh nhưng cũng chưa làm nên cơm cháo gì.
Long An được Hà Nội xếp hạng nhì sau xứ Đồng Khởi Bến Tre quê của bà Phó Tư
Lệnh Nguyễn Thị Bình.
Trở lại thị xã Bến Tre. Quân
Cộng sản đã cho một vài toán vượt qua sông Cái Cối hay Cái Cồi gì đó nhưng
không có phương tiện nên phải giật xuồng ghe của dân bơi qua, bị Nhân Dân Tự Vệ
bên thị xã bắn chìm chừng mười chiếc ghe. Trong khi đó, cách 15 km về phía Bắc,
ở Mỹ Tho quân ông Thọ với lực lượng hùng hậu của Quân Khu II đã vô được tới Cầu
Quây và bến Tắm Ngựa. Mặt khác, phía chùa Vĩnh Tràng cũng có một mũi tấn công.
Bổn đài đặc phái viên đang ở
thị xã lớn nhất đồng bằng Cửu Long này vừa điện về cho biết quân ông Thọ đã vô
được trung tâm thị xã với chiến thuật “A thần phù ” gì đó, có nghĩa là vô được
rồi thì không biết làm gì cả và bị quân địa phương – có thể là Sư Đoàn 7 đang
đóng quân ở đây – chặn bít các ngõ ra.
Xin thính giả đừng tắt máy.
Chúng tôi sẽ tiếp tục loan tin không ngưng.
Bà Xã Ủy vừa nấu cháo vừa nói:
- Mấy thằng cha đó ở đâu bên
Tây, làm sao biết được chuyện bên mình.Cái Cối của người ta lại nói
là Cái Cồi. Chuyện nhỏ còn nói trật, chuyện lớn làm sao nói trúng?
Để sáng mai tui lên thị xã coi thử.
Chúng tôi ăn cháo trắng với
muối quẹt rồi lên võng nằm nghe tiếp. Cứ mỗi năm phút lại có tin bổ túc thêm
một vài thị xã thị trấn hoặc căn cứ quân sự bị tấn công.
Sáng ra, tôi mở đài Hà Nội, bản
tin sáng, bản tin vào Nam. Tin vọt ra ào ào không ngớt. Tất cả các thị xã đều
bị tấn công. Và qua cái khí thế “ngàn năm một thuở” bọn tôi
tưởng đã chiếm được toàn Miền Nam và Hồ Chủ Tịch sắp bay vô Nam rồi. .
Chẳng ngờ chỉ tới chiều thì đài
BBC trong bản tin 6 giờ 30 nói ngược lại hầu hết các bản tin đêm qua.
“Quân Bắc Việt và quân ông Thọ
đã bị chặn đứng ở cửa ngõ Sài Gòn. Đặc công Bắc Việt đã bị tiêu hao nặng hoặc
đánh bật ra khỏi Tân Sơn Nhút. Chỉ có vài cánh tiến vô được trung tâm Sài Gòn
nhưng có vẻ như đám quân ô hợp này không có đường hướng gì ngoài sự đốt phá vớ
vẩn khi vô được tới đây. Họ không biết đường đi do đó cứ đâm đầu vào trận địa
của Sài Gòn.
Trong khi đó ở Mỹ Tho, lực
lượng của họ đã vô trung tâm thành phố và bị tiêu diệt gần hết. Còn lại bao
nhiêu thì bị tản mác, lạc lối và không có chỉ huy, không biết cả đường rút lui.
Riêng ở Cần Thơ tình trạng của quân Bắc Việt càng thảm hại hơn. Họ tấn công sân
bay Trà Nốc nhưng không đạt được kết quả nào. Ở Bến Tre quân ông Thọ đang dùng
chiến thuật hỏa thiêu các khu nhà ổ chuột để gây rối loạn hòng tìm tối thoát.
Có tin viên tiểu đoàn trưởng chủ lực của tỉnh này đã tử thương hoặc bị bắt
sống. Cuộc tấn công ở tỉnh này chỉ còn lẻ tẻ và tuyệt vọng, nhưng hình như Cộng
quân muốn kéo dài mồng Ba Tết.”
Trên trời không có chiếc máy
bay nào. Trực thăng, đầm già , phản lực đều vắng bóng. Chúng tôi tổ chức ăn Tết
tiếp. Vừa ăn vừa nghe tin từ tất cả các đài BBC, VOA, Giải Phóng, Hà Nội. Tất
cả radio Sony, Hitachi, của các cán gáo đều mở thường trực với
tiếng loa lớn nhất. Đài Hà Nội phát những buổi đặc biệt, hết buổi này sang buổi
khác. Tin tức, rồi bình luận rồi ca nhạc Lên Đường rồi ngâm
thơ những bài thơ “từ miền Nam gởi ra” mà chúng tôi biết xuất
xứ là Ủy Ban Thống Nhất ở Chợ Giấm của Nguyễn Văn Vịnh, rồi đọc thơ Tố
Hữu “Phút thiêng liêng anh gọi Bác ba lần” v.v…Chúng tôi không
ngồi yên được, nhưng không biết phải làm cái gì để hướng ứng “chiến dịch vĩ
đại” này.
Một tháng trước, tỉnh ủy họp
bàn kế hoạch. Bộ đội được lịnh chuẩn bị. Tôi biết tiểu đoàn của Chín Chu chỉ
được non hai đại đội. Vũ khí thì râu ông này cặm cầm bà kia. Đánh với vũ khí
hiện đại của Mỹ mà tội nghiệp thay, giải phóng quân cầm súng CKC bắn từng phát,
chỉ khá hơn ba con ngựa trời một tí tẹo. Còn súng tốt phần lớn là súng mua lậu
của Sài Gòn và lượm ở mặt trận. Tỉnh cất giữ rất kỹ để “cơ hội ngàn năm
có một” này đem ra dùng.
Hại thay, Sài Gòn chơi đểu.
Chúng bán súng mới toanh nhưng kim hỏa ngắn không thụt đụng hột nổ. Chúng vứt
súng cũng mới toanh nhưng bắn vài phát rồi giật cu lách không
ra. Giải phóng quân ta được võ trang bằng hai loại súng cước cạnh này nên chi
trong đợt tấn công đầu đã phải tiêu hết gần một đại đội. Tiểu đoàn chỉ có hai
đại đội. Ngoài ra toàn là du kích bị bắt ép đi ra trận trộn vào tiểu đoàn. Đám
này vừa nghe nổ súng đã vứt súng xung phong ngược ra phía sau và chuồn về nhà
luôn.
Qua ngày mồng bốn Tết đài BBC
chỉ loan tin bi quan. Ở khắp các tỉnh đều đánh trả kịch.hệt. Ra cái vụ ngàn năm
có một này hỏng ăn rồi.
Đúng sáng mồng bốn tôi ra đường
thì gặp chú Nhứt đi “dân công” trở về, quần áo rách tả tơi mặt
mày hớt hải. Chú chạy nhào tới ôm tôi khóc hu hu.
- Cậu Hai ơi! Tôi tưởng hết
thấy mặt vợ con rồi chớ!
- Sao vậy chú Nhứt?
- Thì vậy đó chớ sao!
- Nghe đài BBC nói là quân mình
đã vô thị xã . Bộ hổng có sao chú !
- Có chớ sao hổng có !
Hai chú cháu đứng ngoài đường
nói oang oang coi ông Thọ không ra cái dèm nào hết. Chú Nhứt tiếp:
- Tiểu đoàn của Chín Chu có qua
sông được mà !
- Đúng! Tôi có nghe đài BBC
nói.
- Nhưng chỉ qua được vài toán
thôi !
- Sao chú biết?
- Thì tụi tôi đi giựt ghe giựt
xuồng của dân cho mấy ông nội bơi qua chớ ai?
- Sao lại giựt?
- Người ta không cho mượn chớ
sao. Chỉ giựt được có mấy chiếc. Còn mấy chủ khác thì họ bơi đi hết, mình phải
xách súng tới dọa tử hình họ mới cho. Cả tiểu đoàn mà có mấy chiếc xuồng bể.
Nhưng chỉ qua tới nửa sông thì bị bắn.
- Ai bắn?
- Ở bên thị xã bắn qua. Cuối
cùng chỉ lên bờ được vài toán Còn bao nhiêu chìm hết.
Ông Xã ủy ở trong nhà chạy ra nói
ngay:
- Tấn công thị xã có nhiều mặt,
không phải chỉ có Cái Cối đâu. Còn mặt Phú Khương và mặt Cầu Nhà Thương nữa !
Nếu mũi Cái Cối có tà chút đỉnh thì còn hai mũi kia. Tôi nghe đài BBC nói rõ
mà.
Tôi nháy chú Nhứt. Chú Nhứt im.
Tôi bảo:
- Bây giờ có lẽ quân mình đã
chiếm được tòa Tỉnh Trưởng rồi. Đồng bào đang mít tinh mừng chiến thắng đấy chú
!
Tư Mô ở trong nhà ngoắc lia:
- Vô nghe tin đặc biệt các cha!
Ông Xã Ủy quay vô. Chú Nhứt lắc
đầu:
- Các cha mình xoi không thấu
đâu cậu Hai. Quân ít quá lễnh loãng như canh khoai từ. Một củ khoai mà nấu cả
trả nước.
Chú lôi tôi lại gốc me rỉ tai:
- Tụi Sài Gòn chơi ác quá. Nó
chỉ cho nhân dân tự vệ chận bộ đội mà mình còn vô cũng không nổi. Còn tụi dữ
dằn của nó đâu thèm nổ súng. Chúng đổ dù sau lưng chặn đường rút lui của mình.
Chúng nó nhảy tuốt đằng xa đánh thốc sau hậu tuyến của mình mới độc chứ. Cái
lưng lạnh ngắt làm sao xung phong?… Hôm rày cậu có gặp vợ con tôi không?
- Thím dắt thằng nhỏ đi về Cầu
Mống rồi !
- Nhà cửa trống hoang du kích
lấy đồ hết!
- Bình định đóng đồn ở chợ Cái
Quan rồi. Chú phải băng đường vườn về nhà mới được.
- Ờ ! Để tôi đi riết về coi !
Hồi bắt dân công thì Hai Sung hứa là chỉ đi vài ngày thôi. Bây giờ đã cả tháng
rồi.
Bỗng nhiên chú vọt miệng rên
rỉ:
Tin mừng thắng trận nở như hoa
Thắng lợi tin vui khắp nước nhà
Nhà mình không ở ở nhà người ta
- Chú nói gì kỳ vậy chú Nhứt!
- Vậy không phải sao cậu? Toàn
ở nhà người ta mà nhà hoang hoặc ở ngoài vườn. Đói thấy mẹ . Tụi Trâu Điên đánh
ác thiệt cậu. Tụi nó nhảy chận từ đằng xa. Dân công khiêng thương binh hoảng
hồn bỏ chạy ráo trọi.
- Rồi làm sao chú?
- Làm sao ai biết làm sao? Nó
bắn rát quá cậu ơi. Bộ đội mình xung phong ba đợt để mở đường máu mà không rút
được. Mình bỏ tại cầu Biện Nhị mười lăm xác.
Tôi nhảy dựng lên rồi chạy vào nhà
gọi Tư Mô, bảo:
- Cầu Biện Nhị phải ngay nhà
anh không?
- Nếu quận Châu Thành thì đúng
rồi !
Tư Mô tất tả chạy theo tôi.
- Tụi nó phản kích vòng rộng
thì ở quận Châu Thành chớ quận nào nữa.
Chú Nhứt thấy Tư Mô, hỏi ngay:
- Hôm trước tôi nghe chú nói nhà
chú ở quận Châu Thành hả chú Tư?
- Ờ chú (em) đi trên thị xã về
hả chú?
- Bò không thôi chớ có đi đàng
hoàng đâu chú Tư. Tôi có đóng trong cái nhà ngói ở đầu cầu ba ngày, trước khi
vô thị xã.
- Ở dưới này đi lên thì cái nhà
bên này đầu cầu là nhà chú tôi, còn cái nhà bên kia đầu cầu là nhà của tôi.
Chú Nhứt múa tay:
- Nhà nào tôi cũng ở vài ngày
hết. Bộ đội ở để chuẩn bị luồn vào thị xã mà ! Đó là tôi nói trước khi nổ súng.
Còn sau khi nổ súng, tôi trở về thì không còn cái nào hết.
- Tại sao vậy?
- Máy bay bỏ bom.
Tư Mô kêu trời rồi đứng ngây ra
một lúc:
- Chú thấy có ai làm sao không?
- Bận về chạy như gió bão, tôi
chỉ ngó ngang chớ không ghé vào.
- Còn lúc mới tới, chú có thấy
ai trong nhà không?
- Ngày trước thấy đủ cả nhà.
Ngày sau không còn ai.
Tôi và Tư Mô trở vào nhà. Đài
BBC vẫn loan tin liên tiếp nhưng không có gì vui. Tất cả các cuộc tấn công ở
các tỉnh đều bị đánh bật ra ngoài. Không có thị xã nào quân ta làm chủ. Ngoại
trừ Huế thì đã vào được trung tâm. Hai bên đang xáp lá cà ở Thành Nội và thôn
Vỹ Dạ nhưng Cộng quân không có tiếp viện nên núng thế. Bỗng Đài nói:
Tướng Giáp có lẽ dự định vào
nằm ở giới tuyến, nếu thị xã Quảng Từ bị Cộng quân tràn ngập thì sẽ ra lệnh tấn
công luôn các đồn giới tuyến rồi vọt qua bờ Nam. Nhưng Sài Gòn vẫn còn đứng
vững và dần dần các thị xã đẩy lui Cộng quân nên Tướng Giáp đã im lặng rút lui
trở về Hà Nội để đổ tội cho Giải Phóng Quân Miền Nam nhưng ai cũng biết Giải
Phóng Quân Miền Nam gồm ba phần tư lính Bắc Việt. Các trung đoàn thiện chiến
của Sư Đoàn 325, 308 lừng lẫy ở Điện Biên nay không làm nên trò trống gì trong
chiến dịch có cái tên rất kêu là Chiến Dịch Hồ Chí Minh này!
Dân không ăn cái Tết được vì
phải chuẩn bị đánh đấm, đóng góp gạo lúa heo gà… nhất là dân công. Chồng con
người ta, chúng tới ghi tên hốt hết từ mười sáu tới năm mươi lăm không mạng nào
được vắng mặt trong “cơ hội ngàn năm có một” này. Nhiều dân
công một ra đi là không trở về chết gục ở đâu thì cũng không ai biết.
Nhiều tên lớ ngớ không biết
đường nhờ nhân dân giúp đỡ. Nhân dân chơi ác lại dắt lũ cháu bác vô ngay ổ cho
địa
phương quân khìa nhanh chóng. Tôi nằm ở nhà nghe dân công chạy về mà biết rõ
chiến trận đã diễn biến như thế nào và kết thúc ra sao. Việt Cộng chỉ có ba ngõ
vào. Một là từ bên này sông Cái Cối cảm tử bơi xuồng qua thị xã. Ngõ thứ hai là
từ Phú Khương đánh vào sân vận động tỉnh. Nhưng ngõ này thì khó lọt vì không
thể nào luồn quân ém quân trong các xã Phú Khương Hữu Định đông đặc dân chúng
mà toàn thể đều là dân của cụ Ngô. Ngõ thứ ba là từ Cầu Nhà Thương đánh ra. Ngõ
này càng khó lọt vì có cái Thánh Thất Cao Đài của cụ Nguyễn Ngọc Tương thuộc
mười hai phái hiệp nhứt.
Tôi biết rành Bến Tre vì ngày
xưa đi học, chỗ nào mà tôi không lội tới. Tôi còn biết rành hơn cả Chín Chu
tiểu đoàn trưởng và Ba Dào tổng chỉ huy chiến trận này nữa. Hai tên này khôn
lắm, cả hai đều đặt chi huy sở ở bên ngoài thị xã bờ sông Cái Cối để chuồn
nhanh.
Quả thật sau ba ngày Tổng Tấn
Công, tôi gặp bộ Sậu hốc hác trở về cùng với đám tùy tùng. Còn
tên Bùi Thanh Khiết Phó Chánh Ủy Quân Khu 2 tôi gặp hôm trước không biết thăng
thiên lúc nào. Thấy tôi, Ba Dào né ngang, có lẽ anh ta sợ tôi xin đề tài, tôi
còn lạ gì cái tâm lý của kẻ bại trận, nên để cả bọn đi qua, làm như không thấy.
<
—>Chương 15
- 15 -
Cuộc tổng tấn công thị xã Bến
Tre thế là kết thúc vào ngày mồng bảy năm Mậu Thân một cách anh dũng.
Thay vì cái rốn An Định đóng
giữa Mõ Cày và Cầu Mống thì bây giờ đất lại thênh thang như hồi tôi mới về, tức
là An Định, Bình Khánh, Phước Hiệp, Ngãi Đăng, Cẩm Sơn, Minh Đức, Tân Trung.
Tôi mới nảy ra ý định đi tìm những người kháng chiến cũ. May quá tôi nhớ ra anh
Cao Thái Tôn, ở ngay chợ An Định.
Cao Thái là một dòng họ lớn
trong quận Mõ Cày. Có một nhân vật, hình như là Cao Thái Tốt, làm tới đại diện
Chánh Phủ ở Nam Phần thời Quốc Trưởng Bảo Đại. Cao Thái Sáo học chung với tôi ở
trường Mõ Cày. Không biết
bây giờ đi đâu, chắc chắn là không theo kháng chiến. May cho nó. Nếu không thì
cũng như tôi.
Cao Thái Tôn làm tỉnh đoàn
trưởng Thanh Niên Cứu Quốc tỉnh sau ông Mạch Văn Tư. Lúc đó phong trào Thanh
Niên xẹp lắm. Trần Bạch Đằng ngồi trên cứ tống chỉ thị xuống ào ào chớ đâu có
biết ở tỉnh không còn như xưa thời ông Mạch Văn Tư nữa. Một số lớn cán bộ có
trình độ văn hóa, có khả năng đều lên khu hoặc xứ.
Tỉnh mất đi trí thức.
Chỉ còn một mình, anh không
quậy nổi. Cơ quan nghèo xơ xác. Phải về đóng ở An Định để nhờ vào tài sản của
anh. Thoái trào bắt đầu từ đó và sụp hẳn.
Khi Hòa Bình lập lại anh bị tù
năm năm. Có lẽ vì anh là đảng viên và là cán bộ cao cấp. Khi tôi gặp anh thì
anh buồn lắm. Tụi Xã Ủy chăn bò không hiểu công lao của anh. Chúng kiểm thảo
tới kiểm thảo lui nên anh nổi quạu xé lý lịch đảng vứt trước mặt chúng nó rồi ở
nhà luôn.
Bí Thư Tỉnh ủy hiện giờ là cán
bộ của anh thời kháng chiến. Thế nhưng hắn cũng làm lơ. Vì nếu anh Tôn còn là
đảng viên thì hắn làm sao là Bí Thư Tỉnh Ủy?
Tôi gặp lại anh, anh mừng lắm.
Nhưng không nhắc chuyện kháng chiến nữa. Anh làm nghề thầy thuốc để nuôi gia
đình. Nền nhà của anh trơ trọi, cột kèo xếp lại chỉ còn một mái lá sơ sài. Anh
bảo con gái mua hai con vịt một lúc, nấu cháo đãi tôi. Tôi biết nói gì bây giờ?
Chỉ ngậm ngùi cho những người đi tiên phong lớp trước. Người kháng chiến bị tù,
rồi được tự do cũng không còn muốn nhìn mặt nhau, ngay cả những “đồng
chí” trước kia.
Hai Nghi về R. còn Tám Không đi
xuống Miền Tây bị nghẽn đường nên trở lại. Lần này hắn ở nhà khác. Còn tôi thì
ra nhà Má Bảy gần bên nhà ông Binh Biến Bình Dương.
Má Bảy không có vô hội gì hết
nhưng bà có đứa con trai độc nhất tên Rô cỡ 23 tuổi, có vợ, một con trai. Hồi
Đồng Khởi, Rô hăng hái xung phong lên khu và được bổ sung vào Tiểu Đoàn Khu mới
thành lập. Rô có mặt trong trận Ấp Bắc và sau đó lên tiểu đội trưởng của Tiểu
Đoàn Ấp Bắc. Má Bảy không lấy đó làm hãnh điện mà lại lo sợ ngày đêm. Khi tôi
đến ở nhà má Bảy thì má rất mừng, nói:
- Thằng Vũ mày ở đây tụi du
kích nó không dám tới bẻ xoài hái ổi. Thằng Nghi đi rồi tụi nó làm lộng, tao
đâu có la được. Du kích, bí thư, cũng là con cháu của má chớ phải ai đâu lạ,
nhưng họ thấy má ở một mình thì ăn hiếp.
Chiến tranh do bọn Bắc Kỳ gây
ra thiệt là tàn nhẫn.Chúng nó an hướng thái bình mà nung lửa vào Miền Nam gây
ra tang tóc đau thương. Đất đai tan tành không xiết kể. Có thể nói không một
gốc cây nào cần nguyên, không một gia đình nào đủ. Ngày nào cũng nghe có người
bị thương, chết hoặc một tai họa gì đó. Không ngày nào yên ổn.
Một bà già cô đơn sống trong
một cái chòi, một miệng hầm. Nếu có chuyện gì thì ai cứu cấp? Cái hầm trước đây
do Hai Nghi đắp nên. Tôi về bồi thêm một lớp nữa. Đó là đề phòng miếng cà-nông
“xẹt” thôi chớ nó rớt ngay thì trời cứu. Má Bảy còn khoẻ mạnh nhưng rất chậm
chạp.
Cà-nông Cầu Mống bắn lên hoặc
Mõ Cày rót xuống đều tới đây cả . Ở Miền Nam bất kỳ chỗ nào cà-nông cũng đều
bắn tới. Có khi nghe tiếng đề-pa, tôi kêu má mới thức dậy. Ra tới hầm thì đã nổ
bốn, năm trái rồi. Như vậy thì cái hầm đối với má không có tác dụng gì hết.
Nhưng khổ nỗi má lại không chịu ngủ trong hầm.
Nhiều đêm má không ngủ được,
hai mẹ con tâm sự với nhau. Tôi nói về hoàn cảnh “cây một trái” (trai) như gia
đình má, thì má thúc giục:
- Sao mày không kiếm vợ đi?..
Rồi má thở dài. Má nói về thằng
Rô của má. Nguyên văn như sau, tới bây giờ tôi hãy còn chưa quên. Và không làm
sao quên được nỗi đau khổ của má nói về Rô:
- Tao hổng hiểu súng ống mà nó
ham cái nỗi gì? Nó ham bộ đội còn hơn ham vợ con nó. Nó về nhà dọn cơm nó cũng
không ăn. Nó nói về ăn với tập thể. Thằng Vũ mày nghĩ coi! Bắn người ta thì
người ta bắn lại chớ phải người ta không có tay hay sao? Hụt phát này thì còn
phát khác. Như hốt đất mà vảy vô bụi tre làm sao hụt hoài?
Ý má nổi là ra trận không sớm
thì muộn cũng chết nhưng má ngại gở mồm gở miệng cho con trai. Nhưng rồi không
khỏi. Một hôm tôi đi tìm tài liệu về thì má òa lên khóc.
- Thằng Rô chết rồi !
Tôi cũng chết nửa thân người.
- Ai nói vậy má?
- Đâu ngoài xã họ cho tin.
- Không chắc đâu. Để con ra hỏi
lại, má đừng buồn.
Nói vậy rồi tôi quày quả ra tìm
ông Xã Ủy. Quả tình có giấy báo tử. Nhanh hơn lính ở Trường Sơn. Vốn quen lâu
ngày, tôi bảo:
- Cha nội nhẹm dùm lâu lâu hãy
xì ra.
- Khổ nỗi là tôi nhờ người nhắn
rồi ?
- Để tôi tìm cách ém.
- Cách gì? ông làm sao được thì
làm. Chớ giấy tờ có đây rồi.
- Sao mới tổng tấn công mà giấy
về mau vậy?
- Nó hi sinh trước Tết lâu rồi!
Tôi đứng ngẫm nghĩ một hồi thì
nảy ra kế. Tôi bảo ông Xã Ủy:
- Bây giờ thế này nghe ! Tôi về
tôi nói với má là công văn đánh máy trật dấu. Không phải Rô mà
là Rỡ, không phải xã An Định mà là xã An Bình. (Quả thật có làng An
Bình giáp ranh với An Định). Vậy được không?
- Hay lắm. Nhưng sao ông có ý
kiến hay vậy?
- Hồi kháng chiến ở làng tôi có
một vụ động trời. Công văn đánh máy không có dấu. Vì trên quận muốn những cuộc
bắt bớ xảy ra ban ngày để dân chúng khỏi sợ sệt nên dặn kỹ là có bắt ai thì
chỉ bắt ban ngày nhưng vì máy không có dấu nên thành ra bat
ban ngay. Rồi ở dưới xã đọc là bắt bắn ngay. Cho nên công an cứ
bắt lôi ra khỏi cửa là bùm liền. Có đến cả chục vụ như vậy ở trên quận mới hay.
Thì đã muộn rồi. Do đó tôi mới nảy ra vụ Rô và Rỡ,An
Định và An Bình này.
Ông Xã Ủy gật đầu khen nhưng
còn ngoéo lại:
- Nhưng cuối cùng rồi cũng lòi
ra, bả chửi cho tắt bếp.
- Thì ông cứ đưa ông Phó Bí Thư
là cháu ruột của bả ra đỡ đòn.
Trên đường trở về, tôi sửa soạn
miệng mồm để nói cho tự nhiên. Hễ má hỏi gì thì trả lời làm sao. Má vặn cách
nào thì tránh .né cách nào cho xuôi chèo mát mái.
Nhưng vừa về tới cửa là bị má
phủ đầu ngay:
- Mày ra ngoài đó bàn toán nhẹm
tin chớ gì!
- Dạ đâu có má.
- Thôi đi, tao biết mà !
Tôi thấy ngượng, đi nói dối với
một bà cụ đáng tuổi mẹ mình. Nhưng nếu không tìm cách xoa dịu vết tử thương thì
bà có thể điên mất.
Tôi bèn lấy lại tinh thần và
nói:
- Con ra tận xã, coi công văn
tận mắt má à !
- Tao không biết công gì hết.
Con tao chết rồi. Tao nằm chiêm bao thấy nó mình mẩy máu dầm dề cả tháng nay
rồi. Tao không dám nói ra.
- Hổng có đâu má à. Tên trùng
tên. Anh chiến sĩ hi sinh là Nguyễn Văn Rỡ ở bên An Bình. Chớ không phải chú Rô
.
- Bên An Bình không có ai tên
Rỡ hết!
- Có má à !
- Rỡ con ai?
- Dạ con quên hỏi. Tờ báo tử
không có ghi tên cha mẹ .
- Sao không có. Mấy lần xã làm
truy điệu đều có đọc tên cha mẹ của liệt sĩ. Mày nói bộ tao không biết sao. Lễ
xong rồi phát bằng gia đình vẻ vang mà.
Quả tình tôi quên chi tiết quan
trọng đó nên ú ớ một lúc mới nói được.
- Ông Xã Ủy nói là ổng quên coi
nên thơ ký nói sai. Bữa nay ổng mới coi kỹ lại.
Tôi còn đang cố đem hết lý lẽ
của sự bỏ sai dấu tên tử sĩ thì bà Tám đến. Bà Tám chuyên môn đi móc gia đình
cho cán bộ hoặc đi thăm con cái cho các gia đình như gia đình má Bảy. Bà rất
sốt sắng. Đưa tiền xe, tiền ăn là bà đi ngay.
- Hôm trước, chị muốn tôi đi
thăm thằng Rô hả ?
- Còn đách gì mà thăm!
- Sao vậy?
- Chết rồi. Nó theo mấy ông nội
nó nên chết rồi! – Má giận dữ rồi gục vào gốc cột khóc thảm thiết – Nó bỏ vợ bỏ
con nó.
Tôi nháy bà Tám và nói.
- Không có đâu bác. Ở ngoài xã
coi lầm dấu chữ.
Má đi vô mùng lục lọi một hồi
rồi đi ra đưa tiền cho bà Tám:
- Chị làm ơn đi dùm tôi.
- Tôi biết bộ đội của nó ở đâu
mà tìm?
- Nó ở trên Mỹ Tho. Chị lên đó
mà tìm. Chớ nó đâu có cho tôi biết nó ở đâu.
Tôi hỏi:
- Chú có gởi thơ về thăm má
không?
- Nó có gởi cho vợ nó . Vợ nó
đem vô đọc cho tao nghe .
- Để mai tôi ra ngoải . Nhà
thím ở Giồng Võ phải không má ? Tôi biểu thím đưa thơ rồi tôi coi cái địa chỉ
ngoài phong bì cho bà đi tìm. Chớ lên Mỹ Tho mênh mông trời đất biết bộ đội ở
đâu.
Phen này thì hết mong gì bịa
chuyện “trật dấu” nữa. Bà già thực tế vô cùng. Bà không tin xã
ủy xã quéo gì hết.
Ba hôm sau, bà Tám đi về kể
rành rọt. Bà đi vô tận Cái Bè gặp tiểu đoàn của Rô. Rô bị bom chết. Nếu bà chỉ
nói vậy thôi thì má Bảy không uất ức. Đằng này bà lại kể rất tỉ mỉ:
- Đầm già tới bắn điểm. Anh em
người ta chui xuống hầm bít hết rồi. Còn có một cái chừa cho nó. Nó chờ cho hai
người chui trước, nó chui sau cùng, hầm chật, ngồi ở miệng hầm nửa trong nửa
ngoài nên bị một miếng to bằng bàn tay phang vô hông chết liền.
Má Bảy khóc thét lên và vật vã,
dậm chân, đấm ngực:
- Mày gan gì gan ác nhơn vậy Rô
ơi. Phải mày chui vô trước thì mày đâu có chết. Mày ra trận mày cũng xung phong
đi trước. Vì liều mạng nên bây giờ mẹ mày, con mày, vợ mày mới khổ.
Bà Tám sợ bị giận lây nên bỏ về
liền. Người khổ không ít là tôi. Khổ cho tôi vì tôi cũng là con một. Khổ cho má
là mẹ không gặp mặt con trước phút con lâm chung và cũng không biết mồ mả ở đâu
mà thăm viếng.
Khổ tâm thật. Bữa nào dọn cơm
ra má cũng chống tay ngồi sụt sùi tức tưởi một hồi mới cầm đũa. Nước mắt nhễu
vô chén cơm từng giọt một. Tôi chẳng làm sao cầm được nước mắt của chính tôi.
Nhiều lúc cả hai mẹ con đều không ăn cơm. Cái chén cơm trên mâm dành cho đứa
con trai xấu số cũng bỏ luôn lạnh tanh lạnh ngắt. Khổ hơn nữa là cái ngày cúng
tuần ba tháng cho Rô. Thím Rô ẵm thằng con trai mới biết đi lẫm đẫm vào làm giỗ
cho chồng. Tay xách con vịt, tay ẵm thằng bé lội ngang xẻo nước cạn. Con vịt
kêu nghe mới thảm não làm sao. Má Bảy kêu thằng bé bằng Cá Rô. Rô Cha, Rô Con,
cho nên tôi không biết nó tên gì. Thằng nhỏ giống cha như đúc.
Vợ Rô mắt đỏ hoe, đứng bên bàn
thờ khóc nhưng không van vái rồi quay lại bế thằng Rô Con lên. Thằng bé nào
biết gì. Đó là tấm hình của ba nó chụp hồi còn ở nhà. Ba nó vừa cưới má nó
xong. Hai người đứng bên nhau trước bụi chuối bên hè . Vì không có hình riêng
nên phải để nguyên tấm hình như vậy mà đặt trên bàn thờ. Má Bảy không đốt đèn.
Tiệm quán không có nhang trong vùng giải phóng. Má vô nằm trong mùng khóc thút
thít. Bà ẵm thằng Rô Con mà nước mắt như mưa. Vợ Rô ở chơi tới chiều rồi ẵm con
về.
Lúc này quân Sài Gòn chụp luôn,
tôi chạy chân không bén đất. Cái thùng sắt tác phẩm chôn luôn không có moi lên
nữa. Cũng không còn nghĩ tới việc viết hoặc tìm đề tài. Tẩu vi tiên. Cứ hễ sáng
thì tôi đến nhà Tư Mô, Tám Không uống trà nói dóc chờ chạy chung. Nếu êm thì
nhà ai nấy về cơm nước. Nhưng sau đó hầu như ngày nào cũng chạy, không hơi đâu
mà đi gặp nhau. Mạnh thằng nào nấy chạy. Có lần tôi đi cách Tư Mô có năm mươi
thước mà Tư Mô chạy tới còn tôi phải sụt lùi. Vì trực thăng đổ ngay trước mặt
tôi. Chiều tối tôi mới về nhà . Tưởng Tư Mô bị xúc. Tư
Mô thì lại tưởng tôi bị xúc. Hai đứa lại nghe đài BBC và tiếp tục bình luận về
chiến dịch Mậu Thân.
Đó là khoảng vào tháng giêng
năm 1968. Còn được cái rún chợ An Định nên tụi tôi vẫn ngọ nguậy được. Nhờ nó
mà “tiếp tế” từ hũ chao đến lon gạo. Quốc Gia đánh Cộng Sản quyết liệt lắm,
nhưng cũng rất tài tử. Ở chỗ là lính đánh mà thương buôn nuôi. Nếu không có đò
máy ra vào thì làm sao Việt Cộng có muối ăn, đừng nói chi pê-ni-ci-lin để
trị thương. Chẳng khác nào một tay đánh một tay xoa.
Tôi nói ra việc này chắc có lẽ
làm phiền lòng một số người nhưng đó là sự thực. Thử xét ba lô của Việt Cộng
lúc bấy giờ xem: quần áo, võng, dây dù, thuốc hút, aspirine, xà bông thơm, bút
bic, dầu gió, ngoài ra còn gạo, thùng dầu
ăn của dân Mỹ tặng cho nhân dân Việt Nam, thịt hộp các loại, đồng hồ, bút máy
Parker, mực Parker, lưỡi cạo râu v.v… toàn là sản phẩm của thành thị.
Đó là chưa nói thẻ bọc nhựa,
giấy chứng nhận, giấy đi đường gì gì… Việt Cộng đều “xin” của
các ngài chức việc được cả. Trần Bạch Đằng đã chẳng khoe rằng hắn có đến năm,
sáu thẻ bọc nhựa là gì. Ở gần cuối quyển này tôi sẽ nói về vụ thẻ bọc nhựa của
các ông lớn Sài Gòn làm “dùm” cho Việt Cộng.
Một buổi sáng tôi nghe tiếng
đầm già xuống miệt Minh Đức. Bụng hơi nghi nên tôi ra ngồi ở mé vườn ngó về
phía ấy. Con đầm già bắn điểm rồi Thần Sấm tới bỏ bom. Đó là bài bản cổ điển
của một trận bom. Nhưng hôm nay tôi hồi hộp lạ thường. Vào nhà nằm không yên,
ra chợ đón người ở miệt Minh Đức lên để hỏi thăm.
Người ta đồn lính Cầu Mống sắp
ra đóng đồn ở Cổ Cò tức là gần chặng giữa nhà tôi và nhà ngoại tôi, nên tôi
càng sợ không dám đi.
Quả thật hai hôm sau thằng Đức,
con Dì Năm tôi, đang công tác ở Văn Công tỉnh đến cho tôi hay tin sét đánh
ngang
tai. Ngoại tôi và thằng rể dì Năm tôi bị bom chết ngay trong vườn nhà . Trời ơi
! Tôi còn về làm gì nữa. Gia đình nhà cửa, dòng họ đã tan đến mức đó rồi lại
còn nát ra thêm.
Tôi về đến nơi thì ngoại tôi đã
nằm dưới mộ. Cậu Bảy tôi ở Sài Gòn Về. Hai cậu cháu gặp nhau, nhìn nhau. Một
bữa cơm cúng ngoại tôi. Một nén nhang. Rồi đường ai nấy đi, bỏ lại sau lưng đứa
em gái bạn dì hai mươi hai tuổi góa chồng một nách hai con nhỏ và đứa nhỏ trong
bụng. Chồng nó xuống hầm hơi chậm nê n bị miếng bom phang ngang xương sống đứt
làm đôi, còn ngoại tôi bị một miếng nhỏ xíu trúng ngay tim.
Lần cuối cùng khi tôi đi, tôi
có dặn ngoại đừng có lên vườn mà bom pháo nổ không về kịp. Bữa đó ngoại tôi
bưng một thúng tro lên đổ gốc mận cho kiến hôi không tới đuổi kiến vàng đi.
Tôi theo cách mạng để nhìn thấy
những cảnh nát đất, nát nhà và nát cả tim. Cách mạng dần dần đối với tôi trở
thành vô nghĩa và thù hận.
Một buổi sáng tôi thức dậy như
thường lệ . Tôi ra bờ mương ngồi nặn kem Hynos sửa soạn khoác nước súc miệng
thì có một bóng hồng lướt qua. Quái nhỉ. Ở đây sao còn sót một nàng tiên như
thế này. Chẳng lẽ tôi quáng manh. Tôi đánh răng xong vào, hỏi má Bảy:
- Ai vậy má?
Má vọt miệng nói ngay:
- Cháu tao chớ ai.
- Ủa, sao lâu nay con không
thấy.
- Nó học trên tỉnh chớ ở nhà
đâu mà mày thấy được? Ở trển lộn xộn quá, nên tía má nó không cho trở lên nữa.
- Qua chiến dịch rồi đâu có gì
lộn xộn nữa má.
- Ai chắc được. Thời này ở đâu
cũng không yên. Ở thành thì mấy ông bộ đội đánh vô, còn ở ruộng thì lính đánh
ra. Dân ở giữa chạy đàng nào cũng không khỏi.
Thấy má Bảy hơi nguôi buồn về
cái chết của thằng Rô, nên tôi bắt chuyện:
- Ít lâu đây rồi yên hết má à.
Cỡ thằng Rô Con lớn lên sẽ được đi học.
- Thôi đi mày ơi ! Người ta hứa
một trăm lần rồi. Không có lần nào đúng hết. Bây giờ tao nghe ai hứa tao để
ngoài tai.
Hai mẹ con đang trao đổi ý kiến
về cách mạng thì một ông cán bộ bước vào. Đó là ông Trần Thành, phó bí thư xã
Ủy, cháu kêu má bằng cô. Còn ông Xã Ủy, kẻ hội ý cùng tôi “vụ trật
dấu” thì lặn luôn không dám tới.
Thấy Trần Thành bước vô, má bỏ
vào buồng. Trần Thành nói chuyện với tôi một chập rồi cất tiếng:
- Cô Bảy! Bữa nay ngoài xã làm
lễ truy điệu, cháu thay mặt Xã Ủy tới mời cô ra dự.
Má làm thinh. Trần Thành tiếp:
- Bữa nay làm long trọng chớ
không phải đơn sơ như mấy lần trước. Có tỉnh xuống dự. Sau đó có văn công biểu
diễn.
Má vẫn không trả lời. Trần
Thành bèn tỏ sự quan tâm của cách mạng đối với gia đình tử sĩ, tiếp:
- Vợ con của thằng Rô được Mặt
Trận lo. Con nó sau này sẽ đi học Liên Xô Trung Quốc. Cha hi sinh con hưởng. Cô
đừng buồn. Chiến dịch đánh vô thị xã vừa rồi bộ đội hi sinh đông lắm. Cả bốn
năm chục chớ phải mình thằng Rô đâu. Gia đình anh Sáu có đến ba đứa hi sinh.
Thiệt là oanh liệt. Tổ Quốc ghi công, còn Mặt Trận sẽ phát bằng “gia
đình vẻ vang” cho cô tại buổi lễ.
Má bước ra xỉ mặt Trần Thành:
- Nó chết cũng tại mày.
- Nó yêu nước thì nó đi tôi đâu
có xúi biểu gì.
- Ngày nào mày cũng tỉ tê cho
nên nó mới bỏ vợ con nó đi. Bây giờ đó, mày làm mày nuôi vợ con nó.
- Tôi hứa với cô, cô ra dự lễ
là cô phấn khởi liền.
- Mày làm sao thằng Rô sống dậy
thì tao đi. Tụi bây khôn lắm. Con cái của bây bây giấu trong buồng còn con cái
người ta thì bây xúi đi cho chết. Mày với thằng bí thư bí thiếc gì đó đều học
một sách. Dân công cũng không, bộ đội cũng không. Ai chết chớ con cái bây đâu có
chết mà bây lo. Còn thằng nhỏ mới biết đi đó, xúi nó đi bộ đội luôn cho mát
bụng bây. Tao đã nói với bây gãy lưỡi. Là tao có một đứa con trai, để nó ở nhà
làm lụng nuôi tao, đẻ con nối dòng cho dượng mày, mày nhất định đẩy cho nó vô
bộ đội. Vinh quang lắm. Bây giờ mày ăn cho hết cái vinh quang đó đi. Tao không
có đi dự lễ truy điệu truy điếc gì hết, đừng có mời mất công.
Trần Thành đành tiu nghỉu ra
về.
Đường mới ai ơi đời mới
Tuổi thanh niên như nàng xuân đang reo cười
Nghe nhựa sống dâng trào
Đời mới ai ơi lòng ta sục sôi với tuổi hai mươi
Yêu mến vâng ý Bác Hồ
Vượt qua bao gian khổ.
Tội Lưu Hữu Phước lớn lắm vì
những bài hát loại xúi giục này. Thanh niên chết ngập Trường Sơn vì bài hát
này. Trần Thành về rồi má nói với tôi:
- Tụi này gian lận dữ lắm. Nó nắm
chỉ thị nên khi nào sắp bắt dân công hoặc kêu thanh niên tòng quân thì chúng nó
cho con cái giả đau hoặc đi“thăm ngoại thăm nội” đến hết đợt bắt
mới về . Gia đình tụi nó có sứt mẻ chút nào đâu!
Rồi má quay lại chuyện nàng
tiên lúc nãy:
- Con nhỏ coi được đến. Dòng họ
của ông Bái Khải. Tao có bà con với bà nội nhỏ sắp này nên tụi nó cũng kêu tao
bằng bà . Dòng họ này cũng đi hàng hai, một cánh ở Sài Gòn, có đứa làm tới bác
sĩ, có đứa dạy học hoặc làmphạm- nhe (lâu lắm tôi mới nghe tiếng
phạm-nhe (y tá) – Tây gọi là infirmier). Còn một cánh theo giải phóng mạnh lắm.
Thằng thứ sáu có tới ba đứa con đi bộ đội. Kỳ trước truy điệu một lượt hai
thằng. Vợ nó ngất xỉu, nhưng không tởn cho hai thằng đi tiếp. Nó choàng vải dù
mang ba lô đi qua đi lại đường này hoài. Còn một thằng thứ hai cũng có con đi
làm gì trên tỉnh lớn lắm!
Tôi chưa kịp nói gì thì má
tiếp:
- Mấy bữa mày viết rồi đầm
già tới mày bỏ quên giấy trên bàn, con nhỏ tới nó lén đọc. Hai ba lần
như vậy, lần vừa rồi nó ra đây, nó không thấy mày, nó mới hỏi tao vậy chớ mày
làm gì? Tao bảo nó là cán bộ giải phóng chớ còn làm gì nữa mà hỏi. Nó hỏi giải
phóng mà ngành nào? Tao nói tao thấy nó viết viết tối ngày và có cả thùng giấy,
chớ tao không biết nó làm gì. Trước đây có một thằng ở đâu trên R xuống định “quây
phinh” thằng Út Bùi bên cạnh. Hai đứa nó bàn việc làm phinh với
nhau.
- Rồi cổ nói sao, má?
- Nó nói mày làm thơ phú gì đó
phải không? Tao hỏi sao nó biết? Nó nói nó có đọc tờ giấy trên bàn. Mày viết
Bến Tre gì đó.
- Dạ “Bến Tre xanh mãi
bóng dừa”.
- Ừa, hổng chừng đó đa ! Mà
thôi nói gần nói xa hổng qua nói thật. Mày chịu con nhỏ không? Hễ chịu thì tao
mần mai cho. Mày ở đây lâu nay trong vùng ai cũng biết, không có mang tiếng
mang tăm gì.
Tôi không thấy mặt mũi cô nàng
nhưng đoán chắc cô cũng khá gái. Dù gì người ta cũng là học sinh thành phố chớ
đâu có lội bùn dang nắng dầm mưa như mình. Nhưng còn dè dặt
- Ở thành khó lắm má ơi!
- Khó cái gì mà khó ! Má hỏi
thiệt con, con ra ngoài Bắc, con không có vợ có con gì hết phải không?
- Dạ không.
- Có dính với cô nào không?
- Dạ cũng không.
- Chắc phải không?
- Dạ con đâu có dám nói dối với
má !
- Mày là con nhà tử tế. Thấy
cách ăn nói đi đứng của mày tao biết mày là đứa đàng hoàng. Có mấy thằng về đây
đòi hội mẹ cưới vợ. Cưới xong thì lòi cái mặt lường gạt ra.
- Bộ bà lớn ở ngoài đó đi tàu
lặn vô được sao má?
- Không phải bà lớn bà nhỏ nào
vô đây, mà tụi bạn của thằng đó bất ngờ nói lộ ra.
- Cái tuồng đó ở ngoài Bắc kìa
mới có nhiều má ạ. Chớ trong này dù có cũng chỉ lai rai thôi.
- Ở Bắc sao có nhiều vậy?
- Dạ mấy bà phụ nữ trong mình
hay gác máy bay. Thấy mấy cán ngoài Bắc vô trong này được bọn cùng phe cấp cho
ghe bốn chèo, có xây lố cố theo hầu hạ, thì mê, không điều tra
kỹ lưỡng, a thần phù nhào vô hốt đại. Trời bất dung gian đảng về ngoài đó đụng
bà già trầu! Thôi bỏ đi má ơi, nhắc tới mấy chuyện đó nhức đầu dùm chị em ta
lắm.
- Ừ vậy mày đã biết phải quấy,
thì tao tin, tao làm mai cho.
- Cha mẹ con ở ngay dưới Cầu
Mống kia mà , lo gì má ! Con gạt ai chớ chẳng lẽ con dám gạt cả má và cha mẹ
của con.
Má Bảy hỏi gặn:
- Mà mày chịu con nhỏ thiệt
không?
- Dạ… phần con thì xong rồi.
Chỉ sợ người ta không ưng con thôi !
- Thời buổi chiến tranh chết
chóc này, con gái lớn lên là cha mẹ mong gặp mối gả liền, chẳng có ai muốn giữ
trong nhà làm gì. May mà con nhỏ chạy về được chớ nếu kẹt ở trên thì đạn lạc
tên bay không biết đâu mà tránh. Bởi vậy ba má nó không có cho trở lên học nữa.
- Dạ nếu cô ta đòi đi thì làm
sao?
- Ông già nó nghiêm lắm, nói
không là không. Mày muốn coi mặt nó cho rõ không?
- Dạ . . . nhưng mà làm sao, má
?
- Mày biết con chị nó ở ngoài
chợ không? Con nhỏ có tiệm vải ngoài chợ sát vách tiệm con sẩm lai đó.
- Ủa, chị của cô ta?
- Đó là chị Hai, nó thứ Ba. Chị
nó sao thì nó như vậy. Hai đứa đứa nào cũng ngộ hết. Để bữa nào nó đi đánh lá
mía, tao kêu qua đây cho mày nói chuyện. Nó ở thành, dạn dĩ chớ không có nhát
như con gái vườn đâu.
Tôi có thấy chị Hai của nàng
bán vải ngoài chợ. Tôi hỏi:
- Học sinh thành mà cũng chịu
làm vườn nữa sao má ?
- Học thì ở trường về nhà phải
làm công việc giúp cha mẹ chớ!
Một bữa thấy cô nàng thấp
thoáng bên bờ chuối, má gọi:
- Cháu ơi! Cháu qua đây bà mượn
làm dùm chuyện này chút!
Tôi đang viết, quay lại thấy má
nháy nháy và trỏ tay ý bảo vô buồng trốn. Tôi làm y theo lời. Chập sau nàng vào
nhà. Má hỏi:
- Cháu có đủ người đánh lá mía
không?
Nàng đứng ở góc ván trả lời chớ
không ngồi.
- Dạ biết bao nhiêu mà đủ bà
Bảy. Cháu làm được tới đâu hay tới đó.
- Để bà kiếm dùm cho một công,
cháu chịu không?
- Ở đây đâu còn người mà bà
kiếm. Người ta bị bắt dân công chưa có về.
- Cháu không sợ họ bắt à?
- Họ chê cháu ở thành không xài
đâu !
Hai bà cháu nói chuyện bỗng một
tờ giấy trên bàn bị gió thổi bay xuống đất. Tờ giấy cũng khôn thật, nó đáp
xuống nằm trên bàn chân nàng. Nàng nhặt lên rồi vừa đi vừa xem. Đến mép bàn
nàng dừng lại và mải mê đọc không trả tờ giấy lại chỗ cũ. Đọc hết tờ này, nàng
định lấy tờ kia, nhưng giật mình quay lại:
- Ai viết vậy bà Bảy?
- Thằng cán bộ ở trong nhà tao
chớ ai.
- Ủa, giải phóng mà cũng biết
làm thơ nữa sao?
- Ai biết đâu. Tao chỉ thấy nó
ngồi nó viết tối ngày. Hễ có chụp thì nó xếp lại. Chạy trở về thì viết tiếp.
Cháu đọc cái gì trong đó?
- Dạ đây là bài thơ “Bến
Tre xanh mãi bóng dừa”. Đoạn đầu đâu mất, chỉ có đoạn này thôi. Hay
lắm bà ơi. Bà muốn nghe không, cháu đọc cho bà nghe.
- Nhưng chắc cháu đọc nghe hay
không bằng nó đâu !
- Nó nào bà?
- Thì thằng đó chớ nó nào. Để
chút nữa nó đi quán về, bà biểu nó đọc cho cháu nghe. Nó còn đầy thùng đạn lận
chớ không phải có mấy tờ đó đâu. Ở đây chờ một chút.
Nàng ngẫm nghĩ một hồi, để tờ
giấy xuống mặt bàn rồi nói:
- Thôi thôi bà Bảy ơi ! để cháu
đi đánh lá mía.
- Ừ đi thì đi, rồi mai qua đây
tao nhờ làm công chuyện. Nãy giờ tao quên mất.
Nàng chạy vụt qua bờ mía. Tôi
bước ra. Má hỏi:
- Đó mày coi rõ con nhỏ chưa?
- Dạ rõ rồi, má !
- Được không?
- Dạ con thì được rồi, không
biết người ta có được không?
- Thong thả rồi tao tìm cách
tao nói. Con người ta con gái, mình phải khéo. Mà mày nói phải chắc nghe!
- Chắc gì má?
- Chắc là mày chưa có vợ. Đừng
có báo hại tao làm mai mắc họa đó.
- Dạ, con gốc gác ở đây, cha mẹ
còn đủ. Cô con có chồng ở Ngãi Đăng. Họ ngoại con ở Cẩm Sơn, giáp ranh với xã
này mà má. Con đâu có làm xấu dòng họ con được.
- Mày nói thì tao tin, nhưng
phải cho chắc.
Hôm sau, cô học sinh ra đánh lá
mía. Má gọi. Nàng lại sang và tôi lánh mặt trong buồng, nàng lại đọc thơ Bến
Tre xanh thắm.
Lúc đó tôi không còn tâm trí
nào dành cho Đồng Khởi nữa. Tôi cứ làm thơ. Tôi chen thơ tình vào trong đó. Tôi
đưa bóng dáng nàng học sinh vào thơ. Rồi tôi tâm sự luôn với nàng.
Con chim bay khắp trời xanh
Hôm nay trở lại cội cành vườn xưa
Cô đơn tiếng hót trong mơ
Có ai đáp lại thành thơ với mình ?
Ai quen sống chốn thị thành
Về quê có gặp bạn tình hay chăng?
Mẹ già quơ củi sau vườn
Hoa cau rụng trắng bờ mương nước đầy
Sớm trông chiều ngóng chân mây
Con đi biền biệt từ ngày chiến chinh.
Trong một thời gian dài nàng
hầu như có thói quen sang nhà má Bảy để“may rủi” không thấy tôi ở
nhà, gặp thơ xanh thẳm bóng dừa mà đọc. Bàn tay đạo diễn của má rất khéo léo
Một hôm nàng đang đọc thì tôi bất ngờ “về tới”.
Má Bảy nói ngay:
- Cháu tao nó mới tới đó. Nó
thấy giấy rớt dưới đất nên nó lượm lên dùm.
- Cảm ơn cô. Tôi đi lại quán
mua trà quên giằn nên gió bay.
Nàng lựng khựng một chút rồi
nói lí nhí trong miệng:
- Con đi à… bà Bảy!
- Ở, đi rồi mai mốt qua bà nhờ
chuyện này.
Nhờ hoài nhưng không biết là
chuyện gì. Còn tôi thì cứ làm thơ dừa xanh cả ngàn câu chớ không phải ít. Nói
về giải phóng bao nhiêu thì mô tả nàng học sinh bấy nhiêu. Lần đó tôi viết hẳn
một đoạn, bày tỏ ý muốn lập gia đình với nàng. Nàng vẫn sang và đọc như mọi
lần.
Nlhưng bỗng nàng không sang
nữa. Nàng có đi đánh lá mía nhưng má gọi thì nàng lẩn tránh. Tôi hồn vía lên
mây, lại …mữa rồi. Tôi không giấu được nỗi buồn từ khi vắng bóng hồng. Má Bảy
an ủi tôi:
- Con gái mới lớn lên, nó hay
mắc cỡ, hoặc ba má nó rầy rà , nên nó không sang nữa. Hai lẽ đó không biết lẽ
nào. Để tao dò ý tứ nó xem sao.
—>Chương 16
- 16 -
Tình hình sau Mậu Thân càng
găng tới. Không có ngày nào vùng này yên ổn. Cứ vài hôm lại chụp một phát.
Lại còn thêm tiết mục mới là trực thăng soi. Ban đêm nó đang bay trên đầu,
mình đi dưới đất hoặc bơi xuồng, chạy đuôi tôm trên sông, yên chí lớn là nó
không thấy mình, nhưng bất thình lình nó bật đèn lên sáng choang, con kiến bò
cũng rõ. Nếu có bụi rậm thì lủi vào. Nhưng đi giữa đồng trống thì lòi lưng. Nó
xã súng bắn, hoặc táo bạo hơn, nó đáp xuống chĩa súng bắt.
Ngoài ra lại còn có tin đồn
quân Bình Định trở lại. Ruột rối như tơ vò . Một buổi chiều êm ả duy nhất từ
mấy tháng nay, tôi đi thơ thẩn trên bờ ruộng sau nhà má, mắt ngó về phía vườn
chuối xanh trong đó ẩn nấp một mái lá . Dưới mái lá đó là bóng hồng thân thuộc
lâu nay.
Tôi lẩm nhẩm bài Lỡ
Chuyến Đò của Anh Việt. Anh Việt là bạn của hai ông bạn nhạc sĩ của
tôi thời kháng chiến: Thanh Cao và Thanh Sử. Hai bạn này thường nhắc đến Anh
Việt (không đi kháng chiến). Đặc biệt hai bản nhạc bất hủ của Anh Việt được
Thanh Cao và Thanh Sử chơi Hạ Uy cầm và violon còn tôi thì solo luôn.
Hai bài đó được cán bộ kháng chiến rất mê . Đến nỗi trong tập nhạc cá nhân của
thằng nào cũng có, cơ quan phải cấm nhưng càng cấm cán bộ càng hát lén dữ dội.
Tôi chỉ còn nhớ được vài câu:
Chiều vàng lại đem mong nhớ tiếc thương bóng con đò xưa
Và chiều chiều thôn nữ vấn vương…
Tôi bỗng bật cười khi hát, mình
là khách lỡ chuyến đò vừa là nghệ sĩ. Nghệ sĩ lỡ chuyến đò. Chuyến này không
phải là thứ nhất. Cả chục chuyến rồi. Chuyến nào cũng sắp sang nhưng rồi không
sang được. Vì hoàn cảnh éo le. Nếu tình thế bình thường thì cha mẹ tôi đã có
cháu lớn rồi. Khi tía tôi bằng tuổi tôi bây giờ thì tôi đã học trung học.
Chiều buồn mênh mông. Nhớ nhà,
nhớ những kỷ niệm Hà Nội. Nhớ người đàn bà đã có chồng mà muốn ly dị chồng để
yêu tôi. Chỉ dấn thêm một bước nữa là thành. “Em yêu anh như yêu mối
tình đầu” Ácxinha nhân vật củaCholokhov trong Sông
Đông Êm Đềm có mối tình bốc lửa với một anh chàng đã có vợ là Gorigôri làm
anh chàng này không dứt ra được. Đàn bà khi đã yêu thì tình yêu vô cùng quyết
liệt. Chỉ đàn bà mới biết yêu và phục vụ tình yêu.
Tôi ngồi giữa đồng, không muốn
vào nhà nữa, nhưng sực nhớ chiến thuật soi cá của trực thăng nên vội vã men về
vườn. Vào nhà thấy má vừa đốt đèn, mặt má tươi rói:
- Mày đi đâu nãy giờ tao kiếm
không được.
- Dạ con ở ngoài ruộng.
- Mai mày chuẩn bị đi nghe !
- Dạ chuẩn bị gì vậy má ?
- Tìm người đi về móc gia đình.
- Chung quanh Cầu Mống bây giờ
lính bủa vây đâu có ai đi lọt, má !
- Vậy thì làm sao?
- Có việc gì quan trọng vậy má?
- Chuyện của mày chớ còn chuyện
gì nữa!
Tôi ngớ ra, má nói tiếp:
- Người ta chịu gả rồi, nhưng
người ta đòi phải có người của gia đình mày đến.
Tôi ngẫm nghĩ một hồi rồi hỏi:
- Nhưng ai vậy má?
- Thì còn ai nữa? Thằng bác
ruột nó biết bên gia đình mày. Tao nói hết gốc gác của mày thì bác nó bảo là
tưởng ai chớ ông già mày là bạn đá gà của nó hồi trước. Nó còn xúi ông già con
nhỏ: “Tưởng ai thì còn điều tra chớ chỗ đó thì nên gả!”.
Nghe má nói tôi tưởng chừng một
cú sét đánh bên tai mà cái búa Thiên Lôi làm bằng một đóa hoa hồng. Nhưng gia
đình đồng ý còn đối tượng thì sao?
Ít lâu nay tôi không côn trông
thấy nàng thấp thoáng trong mấy bờ mía nữa. Tôi phải tìm cách gặp nàng để xem
tình ý. Nàng không sang nhà má Bảy, thì tôi phải đến nhà nàng, nhưng với lý do
gì? Không có lý do gì cả.
Ngày ngày tôi cứ ngẩn ngơ. Vẫn
ngồi ở bàn làm như sáng tác, nhưng sự thực thì chỉ “sáng tác” thư tình và thơ
tình. Có khi cả chục trang viết xong mà không biết làm sao đưa. Nàng có mấy đứa
em trai ra vào ngôi nhà lớn của nàng ngang nhà má Bảy. Ngôi nhà nay đã dỡ đi
cột kèo xếp lại chở về Mõ Cày để gởi bà con giữ giùm. Trong nền nhà đó, ban đêm
tôi lén đào chôn chiếc thùng tiểu thuyết của tôi. Trong vườn chuối của gia đình
nàng, tôi cũng đã đào một cái hầm bí mật. Mấy đứa em nàng đi bắn chim, hái ổi
tình cờ lại tìm thấy cái nắp. Chúng bèn kêu nàng ra xem. Tôi thấy thế bèn chạy
sang. Biết là hầm mình bị lộ nhưng lại có dịp gặp nàng. Thấy tôi đến mấy đứa bé
nhìn tôi bằng cặp mắt dò xét rồi lần lượt chúng lảng tránh. Tôi tưởng nàng cũng
đi theo đám em, chẳng ngờ nàng đừng lại. Đây là cơ hội ngàn năm có một. Tôi
hỏi:
- Sao lâu nay không thấy em ra
đánh lá mía nữa?
Nàng nghiêm nghị đáp:
- Phải chờ một tháng mới có lá
khô.
- Lâu quá vậy?
- Phải chờ, nếu sốt ruột thì lá
non không đánh được.
- Bờ nào cũng vậy sao?
- Em đánh qua lượt hết rồi.
Tôi đã thủ sẵn một xấp cả chục
lá thư nhưng không dám đưa. Sợ người ta không nhận. May sao nàng lại hỏi:
- Anh có làm tiếp bài “Bến
Tre xanh thẳm bóng dừa” không ?
- Có, đây nè, em có muốn đọc
tiếp không?
Tôi vừa hỏi vừa đưa ra. Nàng
hơi lưỡng lự rồi nhận xấp giấy từ tay tôi.
- Sao lâu nay em không sang nhà
bà Bảy chơi nữa?
Nàng ngập ngừng một chút rồi
nói:
- Em qua, bà nói chuyện gì kỳ
quá hà!
- Chuyện gì mà kỳ?
Nàng đỏ ửng mặt, tay bứt mấy
chiếc lá ổi non vò nát mà không nói gì. Tôi hỏi:
- Chuyện gì, đâu em kể lại cho
anh nghe với, được không?
- Bà hỏi em có chịu đi chờ Cầu
Mống không?
- Chợ Cầu Mống thì cũng như chợ
Cái Quao, chợ Mỏ Cày vậy chớ có gì mà kỳ.
Nàng dậm chân nhè nhẹ:
- Không phả…ải. Bà có ý khác.
- Ý khác là ý gì?
- Mà thôi bỏ qua đi. Em nhờ anh
giúp chuyện này một chút.
- Chuyện gì nói đi!
Tôi mừng rơn trong bụng. Chuyện
lên trời xuống biển gì mà không nhận? Nàng nói:
- Ở xã muốn em dạy học. Em biết
gì mà dạy. Nhưng ba em đã nhận lời rồi.
Tôi bảo:
- Em dạy được mà. Trẻ con ở
thôn quê ít học lắm.
- Em dạy gì nổi ba lớp một lúc.
Em đâu có từng làm cô giáo.
- Em dư sức dạy mà. Em cứ bắt
đầu, rồi anh giúp cho.
- Bộ trước đây anh có dạy học
sao mà giúp?
- Không. Nhưng dạy con nít khó
gì.
Nàng giở xấp giấy ra liếc qua
và nói:
- Thơ gì mà nhiều dữ vậy?
- Thơ của anh làm.
- Giải Phóng mà cũng biết làm
thơ sao?
- Biết chớ.
- Vậy em nghe báo thành nói
Giải Phóng rừng rú, dã man, ốm yếu ba người đeo một tàu đu đủ không rụng.
Nàng che miệng quay ngang. Tôi
bật cười to lên rồi hỏi:
- Như anh vầy, em coi có dã man
không?
Nàng cười và lắc đầu. Thỉnh
thoảng nàng đi đâu về, ghé nhà má nói chuyện với tôi. Má thấy chúng tôi xưng hô “anh,
em” với nhau ngọt ngào, bèn bảo cô nàng:
- Hổm rày tao thèm bánh mà
không biết bánh gì, sẵn có cháu đây làm một món!
Nàng lắc đầu:
- Cháu không biết làm bánh gì
hết.
- Ờ phải, con gái ở chợ, muốn
ăn bánh thì đi mua. Vậy thôi làm kẹo bẹ chuối ăn uống trà đỡ
đỡ.
- Cháu cũng không biết nữa.
- Bà chỉ cho làm!
Rồi không đợi cô bé đồng ý, má
lấy dao nạy đường mía trong hũ ra để trong soong chụm lửa và dặn:
- Cháu ngồi coi chừng để bà đi
cắt ít cái bẹ chuối.
Thấy tôi đứng xớ rớ bên cạnh,
má lại trách:
- Con trai không biết làm gì
hết, nữa có vợ, vợ nó bảo nấu cơm kho cá không biết làm nó đánh đòn.
Tôi cười:
- Con nấu cơm giữa trời mưa còn
chín đó má ạ !
- Vậy thì ở đó phụ với người ta
nấu nước đường, đừng để cho khét.
Nàng cúi nhìn lửa, đôi má đỏ
rần. Tôi rón rén ngồi xuống cách nàng xa xa. Thỉnh thoảng lại rút một thanh bã
mía khô đưa cho nàng. Nàng đưa tay lấy mà không quay mặt lại nhìn tôi. Thấy
nàng nhận sự ngồi gần của tôi, tôi bèn nhích tới chút, rồi lấy chiếc muỗng đưa
cho nàng, bảo:
- Em khuấy lên cho đều kẻo
khét.
Nàng cũng làm theo tôi bảo
nhưng vẫn không nhìn tôi. Tình yêu có mắt sau lưng. Tôi thấy trán nàng rươm
rướm mồ hôi bèn đi lấy chiếc khăn của tôi đưa cho nàng:
- Em lau mồ hôi đi !
Nàng đưa tay quệt ngang trán
chớ không nhận khăn. Tôi hơi bối rối trước sự từ chối nho nhỏ đó, định bụng tìm
kế khác nhưng má đi vào, tay cầm một mớ bẹ chuối. Má bảo cô nàng:
- Để đó bà coi chừng, cháu di
ra cái tủ ngoài vườn lựa lấy vài cái dĩa đem vô đây đổ kẹo.
Nàng vừa đi thì má lại bảo tôi.
- Con ra phụ với nó. Chén dĩa
để lộn xộn lắm. Không dám để trong nhà vì sợ cháy nhà tiêu hết. Mau lên, con
trai gì không sáng trí.
Tôi hiểu ý má bèn nhanh nhẩu đi
theo nàng. Chiếc tủ đứng giữa những bụi chuối. Nàng sợ rắn không dám chen vào
Tôi xung phong thay cho nàng. Tôi lấy chén dĩa đưa ra nàng cầm lấy xếp dưới
đất. Đến vài lần nàng vừa đưa tay ra để nhận thì tôi cầm chặt lấy rồi bất thần
tôi hôn. Rồi hôn luôn trên má nàng. Mặt nàng đỏ rần. Nàng lí nhí trong miệng:
- Bà Bảy thấy mét ba.
- Không thấy đâu.
- Bà ra kia kìa.
- Bà không rầy đâu!
Tôi lại hôn lên má nàng những
cái hôn thật dài. Chúng tôi không nói gì với nhau. Chúng tôi hôn nhau. Hôn
chính là lời nói, lời thơ. Thơ nào, lời nào nồng nàn bằng những cái hôn mở ngõ
một cuộc tình.
Chúng tôi đi vào. Má bảo nàng
để ngửa những bẹ chuối trên ván lấy dầu dừa thoa lên và bảo tôi lấy muỗng múc
nước đường đổ từ từ lên những bẹ chuối, với sự điều khiển của má, nàng cầm đũa
khuấy cho đường kẹo lại. Má bảo:
- Kẹo tốt lắm. Vậy là thành
rồi.
Rồi má xách cái soong ra ao cạo
rửa. Tôi bắt ngây nên tìm cách hôn nàng. Tôi nhìn những vệt trầy trên tay nàng
và hỏi:
- Tay em sao vậy .
- Lá mía cắt.
Tôi bất thần cầm lấy rồi hôn
luôn. Rồi đưa lên miệng mút những ngón tay dính đường. Nàng đẩy nhẹ tôi ra:
- Bà Bảy vô kìa!
Má nhắc lại lần nữa.
- Kẹo dẻo chớ không loãng. Vậy
là thành rồi!
—>Chương 17
- 17 -
Đám cưới của tôi thật gian nan.
Quân Bình Định đã đóng lại chợ An Định làm rối loạn của sinh hoạt khu giải
phóng. Đường đi nước bước thay đổi hoàn toàn. Cơ quan đua nhau lủi. Những ông
cán thận trọng biết hầm hố vùng này không còn tác dụng nữa, nên cạy nắp hầm gói
vô nilông quảy sau lưng đi tìm địa điểm mới kiến trúc cái khác.
Nhà nhạc phụ tôi ở cách chợ
chừng non hai cây số. Lúc bấy giờ tôi đang ở bên An Thới gần văn phòng Tỉnh Ủy
và Phụ Nữ tỉnh. Tôi không thể rước gia đình ở Cầu Mống lên được vì ở dưới đó
quân Bình Định cũng đã lấn chiếm, ngoại khó nhập mà nội thì khó xuất. Gần ngày
đám cưới mà tiền không có để mua nữ trang cho cô dâu. Đã đành là dân giải phóng
nghèo kiết nhưng cũng phải giữ lễ. Tôi bèn mạo hiểm băng đồng về Tân Trung rồi
len lỏi trong vườn về Minh Đức đến nhà ngoại tôi, cầu cứu với dì Năm tôi. Dì
bảo em tôi lấy nữ trang cưới của nó đưa cả cho tôi và cho tôi một số tiền mua
sắm thêm “để bên đàng gái chê dòng họ mình”. Tôi gởi đó đi Bến Tre
mua thêm vài ba món cho đủ bộ.
Chị Sáu Hòa đoàn trưởng Phụ Nữ
Giải Phóng Tỉnh đã từng mai mối cho tôi nhiều cô trong số cán bộ của chị, nhưng
tôi không ưng cô nào. Do thế ngày nay nghe tôi cưới vợ là nữ sinh thành thì có
ý không vui. Chị bảo:
- Nên coi lại thành phần.
Tôi trả lời nhỏ nhẹ:
- Bác vợ tôi có hai người con
trai hi sinh. Cô của vợ tôi có con đi cán bộ tỉnh.
- Còn một cánh ở Sài Gòn thì
sao?
- Gia đình vợ tôi ở trong vùng
giải phóng không có liên lạc với “họ”..
- Để tôi xin ý kiến Tỉnh Ủy đã
. Vì hiện giờ Tỉnh thay mặt cho R giải quyết việc hôn nhân cho cậu.
Tôi hơi nực nhưng cố nén lòng
và lễ phép tối đa. Chị Sáu là Tỉnh Ủy Viên. Tôi. quen hồi thời kháng chiến.
- Dạ thưa chị Sáu, mọi việc đã
do hai bên gia đình chúng tôi xếp đặt cả rồi. Chỉ còn mời đại diện Tỉnh Ủy đến
chứng kiến. Cá nhân tôi đề nghị chị thay mặt Tỉnh Ủy đến công nhận cuộc hôn
nhân là đủ.
- Ngày nào thì em tiến hành?
- Dạ hai bữa nữa.
- Chờ đúng ngày sinh nhật Bác
cử hành luôn cho đầy đủ ý nghĩa cậu à.
- Dạ tôi sợ tình hình không ổn.
Nên ngày nào không có chụp dù thì ngày đó có ý nghĩa. Nếu đình hoãn sợ đàng gái
bắt bẻ.
Chị biết không có cách gì ngăn
cản hoặc đình hoãn lễ thành hôn của tôi nên đành phải nhận lời đại diện Tỉnh Ủy
đến làm chủ hôn đàng trai.
Buổi lễ cử hành trong căn chòi
túm húm ở sau vườn nhà nhạc phụ tôi. Chủ tọa vừa tuyên bố lý do xong, cô dâu
chú rể sắp ra tuồng thì trực thăng tới. Từ xa đã thấy đèn rọi, chụp xuống đất
dọc theo gân lộ đá tỉnh bị phá hoại từ 45 còn sót lại. Cả đám tiệc tắt đèn ngồi
êm rơ, chờ cho trực thăng biến mất mới thắp đèn lại, tiếp tục. Mặt người nào
người nấy cắt không được hột máu. Cũng may, ngoài trực thăng không có màn gì
khác. Nếu cà-nông thụt thì không có đủ hầm để chun.
Đại diện Tỉnh Ủy đứng lên lặp
bặp vài ba câu vừa côngnhận cuộc hôn nhân vừa chúc mừng đôi tân hôn. Rồi chàng
rể trao tặng cô dâu một bó hoa do bà đạo diễn của đoàn văn công tỉnh sáng tác.
Thế là kết thúc. Mỗi đại diện cơ quan đến dự được ông nhạc tôi tặng một cục
thịt heo rồi mạnh ai nấy hối hả ra về.
Thế là tôi đã có vợ. Một biến
chuyển lịch sử trong đời cách mạng chầu rìa của tôi. Qua một sớm hơn một chiều
tôi đã là chồng của một người con gái.
Khuya hôm đó đôi tân hôn phải
dắt nhau băng đồng qua An Thới hãy còn chưa bị quân Bình Định thăm viếng. Ông
nhạc tôi bảo vợ chồng tôi đến nhà ông Ba Còn là người quen để ở đậu. Ông Ba Còn
tuổi chỉ bằng ông nhạc tôi nhưng ông để râu dài như cụ Hồ. Nghe vợ chồng tôi
đến, ông sốt sắng kêu các con trai khiêng bàn ghế, giường ngủ đến ngôi nhà
trong vườn của ông cho vợ chồng tôi ở.
Ngôi nhà ba căn đầy đủ tiện
nghi, nhưng theo thời trang bây giờ thì không dùng được . Vì nó ở trong vườn,
mà vườn là mục tiêu của bom pháo. Cho nên gia đình ông cất chòi ngoài ruộng để
ở tạm. Của đáng tội chòi cách nhà chừng trăm thước. Tuy vậy, ông yên tâm là
khỏi bị trực thăng và đầm già để ý.
Gia tài của cặp vợ chồng mới
gồm có cái ba lô bao tử trâu của chồng, và cái xách tay bằng ni lông trong đó
đựng vài bộ bà ba và một ít đồ tế nhuyễn của vợ. Thế là hết. Nếu muốn kể thêm
thì còn vài món khác như đôi dép bắt heo và cây K54.
Vừa đặt ba lô xuống là tôi đi
rảo sau vườn để nghiên cứu những tử điểm và sinh lộ. Sau nhà là Rạch Cái Chát
không rộng lắm , nhưng nếu ai không biết bơi thì nhảy xuống đó sẽ bị bà thủy
mời dễ dàng. Hai bên bờ rạch là lá dừa nước um tùm. Nếu trực thăng nhảy giò ở
trước ruộng thì tôi có thể vọt qua rạch dông một hơi đến “vương quốc
Thành Thới” một vùng tiếp giáp với bờ sông Cổ Chiến và bên kia sông là
tỉnh Trà Vinh: Thành Thới có rất nhiều vùng đất hoang rậm ri, có thể làm nơi cho
tôi dung thân vạn đại.
Nhìn qua địa thế hiểm trở, tôi
lấy làm an tâm xây tổ uyên ương trong ngôi nhà bỏ hoang này. Đoán chắc tình
hình thay đổi làm cho vợ tôi suy nghĩ bâng quơ và buồn bực, tôi bèn lấy hết lập
trường cách mạng ra để công tác chính trị cô nàng. Nhưng vợ tôi cười vui vẻ:
- Em đâu có sợ lính quốc gia mà
anh lo dữ vậy! Em gặp họ hoài. Họ có gì đáng sợ đâu.
Tôi mừng rỡ, nói tiếp:
- Dần dần rồi em sẽ quen với
đời sống lưu động của anh.
- Anh không phải ngại gì cả .
Anh đi đâu em đi đó . Em biết trước cuộc sống của anh rất cực khổ nhọc nhằn
nhưng em vẫn yêu anh. Em chấp nhận cuộc sống của anh và coi đó là cuộc sống của
em.
Được lời như mở tấc lòng, tôi
hôn nàng say đắm. Ở đây chúng tôi sống tiếp tuần trăng mật, hầu như quên lãng
cả thế giới bên ngoài.
Không ngày nào dài bằng ngày chúng tôi
Không đêm nào ngắn bằng đêm chúng tôi
Không ngày nào ngắn bằng ngày chúng tôi
Không đêm nào dài bằng đêm chúng tôi.
Bây giờ tôi không sáng tác Đồng
Khởi mà cũng không làm thơ Bóng dừa xanh thẳm nữa. Không bóng nào
xanh thẳm bằng mắt, tóc của nàng.
Anh yêu em tuyết phủ
Anh yêu em sông dài
Anh yêu em núi một
Anh yêu em đồi hai.
Bài thơ dài vô tận còn nằm
trong lòng tôi chưa viết lên trang giấy. Một hôm trong lúc yêu nhau tôi nói với
nàng:
- Hai mươi năm sau con đầu lòng
chúng mình sẽ đỗ tú tài.
Chúng tôi đã thực hành được lời
hứa này. Lúc nào yêu nàng tôi cũng nghĩ đến đứa con mà chúng tôi sẽ có. Để cha
mẹ tôi ẵm bồng nâng niu. Đó cũng là cách tránh khỏi cái tội bất hiếu của tôi.
Bỗng một hôm Tư Mô đến thăm tổ
uyên ương của chúng tôi. Vợ tôi nấu đãi anh một tô mì gói. Loại mì này chúng
tôi dự trữ hằng khối trong nhà để phòng khi ứng dụng, nhất là khi có chụp thì
nàng nhét hai ba gói vào trong chiếc túi con cho tôi đắp đầu gối để chạy cho
khỏe. Tư Mô húp xong tô mì rồi chậm rãi móc trong túi ra nào là tiêu tỏi hành
ớt tương chao nghệ ngãi bày đầy một bàn, tỏ vẻ tìm kiếm.
- Anh tìm cái gì vậy?
- Công điện ở trên Tiểu Ban R.
- Nói cái gì?
- À, đây rồi. Hồi nãy tôi dùng
gói bột ngọt… Ở trên bảo mình về gấp.
Tôi ngẩn người ra hồi lâu mới
đọc:
” Tiểu Ban Văn Nghệ R gởi Tỉnh
Ủy Bến Tre, Tư Mô và Hai Bùi về gấp. Tư Siêng. “
Tôi đưa cái công điện lại cho
Tư Mô. Anh bảo:
- Chú tính thế nào?
- Về gì được mà về !
- Quân áo Đen’ đóng lan ra tới
Ngã Tư Giồng Võ rồi.
- Anh đi ngã nào tới đây?
- Chẳng biết ngã nào mà nói, cứ
nhắm hướng càn đại tới !
- Sao anh biết vợ chồng tôi ở
đây.
Tư Mô cười:
- Bây giờ có vợ rồi ăn nói mạnh
miệng ha ! Tôi có đến nhà ông nhạc chú. Ủa thím Hai đâu rồi? Ông nhạc chú gởi
cho chú thím vài thùng đường mía.
Tôi kêu lên:
- Làm sao anh vác nổi. Mỗi
thùng 50 kí lô lận mà !
- Đường đã đổi ra tiền nên nó
nhẹ hoe thôi, chú nó !
- Ba má tôi mạnh hả anh Tư?
- Mạnh hết. Nghe gia đình sắp
dời lên Mõ Cày ít lâu lính đóng đồn xong sẽ về. Bây giờ lúc tranh tối tranh sáng,
bom đạn mệt lắm.
Vợ tôi vốn quen tánh anh Tư, hễ
ngồi lại là hút thuốc uống trà, nên đã nấu nước sôi. Anh Tư lấy trà ra bỏ vô
bình:
- Ở trên R uống trà con khỉ hộc
máu, xuống đây cũng gặp nó, cho nên chúng mình lúc nào cũng chạy hộc máu mồm…
Vừa uống trà chúng tôi bàn thêm
về bức công điện. Anh Tư nóì nhỏ với tôi:
- Có lẽ Tỉnh Ủy báo cáo lên
trên.
- Báo cáo gì anh?
- Vụ vợ con của chú sao đó,
biết đâu !
Tôi phát cáu nhưng anh nháy tôi
bảo giằn lại kẻo cô nàng nghe. Tôi nói to:
- Đường dây chắc chắn là đứt
hết. Bây giờ giao liên chạy tán loạn, dễ gì mà tìm được trạm.
- Đó không thành vấn đề .
Anh lại móc đưa một tờ giấy
khác, bảo:
- Chú đọc đi !
Thì ra cái “thông báo” của
văn phòng Tỉnh Ủy cho hay sẽ cắt sinh hoạt phí của chúng tôi. Thật ra số tiền
đó không đủ mua dấm nấu một nồi canh chua. Lâu nay về đồng bằng tôi sống nhờ sự
tiếp tế của gia đình nhiều hơn. Nhưng sự cắt sinh hoạt phí này có tính chất đe
dọa bắt buộc chúng tôi phải cuốn gói, chết sống băng Đồng Chó Ngáp về R.
Anh Tư vừa nhấp trà vừa bình luận:
- Đi thì không thể, ở không
xong.
- Mình cứ coi như không có cái
công điện này.
- Giỡn hoài chú nó !
- Theo anh thì phải quyết định
như thế nào?
Tư Mô ngồi làm thinh. Anh đã
trải qua quá nhiều éo le trong cuộc đời đi theo cách mạng của anh nên gặp chuyện
gì dù phật ý đến đâu anh cũng phản ứng rất nhẹ nhàng, khác hẳn với ‘tôi. Có lẽ
Tỉnh Ủy đã báo cáo vụ tôi cưới vợ chăng? Tôi vụt nhớ chuyện bác Ba Lắm Bình
Xuyên. Ba Lắm là một trong những ông tướng chỉ huy đánh trận Cầu Mống ở làng
tôi. Khi ra Bắc, tôi nghe bác bỏ phục viên với chức “đại đội phó”.
Suốt chín năm không được đề bạt một cấp nào. Tôi gặp bác tại nhà bác gái ở gần
Cầu Long Biên. Tôi nhắc chuyện xưa. Bác lắc đầu:
- Thôi cháu ơi ! Dân Nam Bộ
mình bị hố rồi, nhớ chuyện xưa chỉ thêm đau lòng!
Lúc đó bác đã ngoài năm mươi
mới cưới vợ. Bác gái là một bà tư sản có phố cho mướn, có con phục vụ chế độ:
một là bác sĩ, một là diễn viên kịch nói. Thế nhưng bác bị ban tổ chức trung
ương qui cho cái tội’ “mất lập trường”.
Bác nói với tôi:
- Chúng nó bỏ vợ lớn lấy con
địa chủ thì cho là khuyết điểm sinh hoạt, còn mình lấy một bà góa bị tước đoạt
hết tài sản thì bị qui là mất lập trường.
- Trường hợp của tôi thì sao?
Sao thì sao. Mặc ! Tôi không sợ gì nữa. Muốn kỷ luật gì thì kỷ.
Tư Mô rỉ tai tôi:
- Hai Tranh phó bí thư Tỉnh Ủy
vừa bị bắn chết ở Đồng Chó Ngáp!
- Tin ở đâu vậy?
- Tin hành lang. .
- Thằng chả đi đâu lên đó?
- Đi lên R để nhận chỉ thị cho
tình thế mới gì đó !
Anh Tư nói vậy thì có nghĩa là
không thể về, không nên về đừng về .
- Tụi nó sẽ đóng bít hết Cù Lao
Minh. Không biết rồi mình chạy đi đâu.
- Bộ đội không “gỡ” được
cái đồn nào hay sao?
- Chú không biết là trong Tết
bộ đội mình bị thiệt hại bộn à ?
- Nó sẽ bỏ vòi vô tới chợ An
Thới. Mình lại phải đi khỏi chỗ này.
- Qua Thành Thới trú tạm ít lâu
vậy. Ở đó có hai ấp An Trạch Đông và An Trạch Tây còn độc lập.
Sau đó anh tìm nhà một nông dân
ở đậu, nhà ông Năm Triều, ngày ngày bắt nhái, làm mồi câu cua sinh sống, chớ
không ở với chúng tôi. Anh không muốn quấy rầy cặp vợ chồng mới. Ngày nào tôi
cũng thấy hàng đàn dân chúng cán bộ đi qua đi lại trước cửa nhà tôi, như kiến
động ổ. Quả thật không bao lâu, quân Bình Định bỏ vòi vô An Thới.Tình thế bi
đát võ cùng. Tôi định đưa vợ tôi về với gia đình ông nhạc để nàng lên Mõ Cày ở
tạm. Như vậy thì càng mất lập trường. Nhưng vợ tôi không chịu đi.
- Anh đâu em đó !
Thế là vợ chồng tôi đành phải
bỏ cái tổ êm ấm này chạy qua Thành Thới . Chỉ hôm sau là quân Bình Định chiếm
luôn An Thới không có một phát súng phản ứng.
Tưởng rằng tìm được nơi héo
lánh mà ẩn thân chẳng ngờ qua đó lại đụng đầu cán bộ lụp cụp. Càng rủi hơn lại
chạm trán tên Nhái bén. Hắn có vẻ không bằng lòng nhưng chẳng dám nói gì. Vì
đất này đâu phải của riêng ai.
Thấy tay chân mặt mũi vợ tôi
không hạp với sinh hoạt nông dân, tôi phải tìm quần áo phèn cho nàng mặc. Ngoài
ra tôi còn dặn:
- Nếu có gặp lính chụp thì em
cứ nói em là cháu của Tổng Cường, dượng rể ở quận Hương Mỹ.
Nàng cười:
- Anh sợ lính chớ em không sợ
đâu. Hồi trước em gặp họ hoài mà.
Chúng tôi may mắn gặp một anh
bạn do Tư Mô giới thiệu. Đó là Ba Sơn, người ở thị xã Bến Tre. Ba Sơn làm việc
trong ban Điện Đài của Tỉnh Ủy. Ở cơ quan này còn có anh Hồng là con của cô vợ
tôi. Anh Hồng có đến hỏi thăm chúng tôi qua loa rồi biến mất. Chúng tôi không
nhờ cậy gì được Một hôm Ba Sơn bảo tôi:
- Anh chị phải đi qua bên Cù
Lao Bảo mới yên. Tỉnh ủy sắp “lui ghe” rồi.
Nghe câu nói đó tôi mọc ốc đầy
mình. Cưới vợ xong, chưa gặp lại gia đình, cũng không cho vợ về thăm. Vợ tôi
làm sao vượt sông Hàm Luông nổi? Cô nàng có chịu bỏ xứ mà đi lưu linh như tôi
không? Qua đó tứ cố vô thân, lấy đâu làm nguồn tiếp tế?
Nhưng may quá, nàng vẫn cương
quyết “anh đâu em đó”. Thế là cuộc trường chinh bắt đầu. Ba Sơn
cũng có một cái “rờ-moọc” đeo sau lưng như tôi mà lại đang
trọng tải “một trái bầu” khá to. Đường đi thuộc lòng do Ba Sơn
hướng dẫn trên con đường “Ba bước lội” (nói nhại tên xã Đa
Phước Hội) không có khúc nào khô ráo được vài thước, toàn bùn sình và cầu kỳ
quái gỡ. Nhưng vợ tôi cũng cố mím môi mím lợi mà lội với tình cảm “Chàng
đi theo nước, thiếp theo chàng!”
Riêng tôi đã phải vượt sông Cửu
Long năm bảy lần rồi, bây giờ thêm một lần nữa cũng chẳng sao. Trước khi bốn
ông bà xuống chiếc ghe tang thương, anh giao liên khai thông tư tưởng bằng một
giọng lạnh như tiền:
- Bến này đã bể. Đầm già vừa
phóng pháo hôm qua. Chúng tôi đi chuyến này là chuyến chót. Đuôi tôm chạy không
bảo đảm. Nếu ra giữa sông mà chết máy thì yêu cầu các đồng chí bơi tiếp. Nếu
đầm già hoặc trực thăng tới thì các đồng chí tự lo liệu lấy…
Chúng tôi đành cắn răng nhắm
mắt mà bước xuống ghe . Hành thuyền kỵ mã tam phân mạng. Đó là
thuyền bình thường, còn đây là thuyền giao liên thì thập tử nhất sanh.
—>Chương 18
- 18 -
Cũng may chuyến đi trót lọt.
Lên bờ mạnh ai nấy vọt. Vợ chồng tôi đi theo vợ chồng Ba Sơn. Bà bầu đi lệt
bệt. Vợ tôi thông cảm nữ giới với nhau nên đi kèm. Đây là đất Thạnh Phú
Đông-Tân Hào quê hương của lực lượng võ trang tỉnh thời đầu kháng chiến chống
Pháp do các vị tiền bối Hai Phải, Ba Kích, Năm Hà, Bảy Cống nhen nhóm và phát
triển thành bộ đội lớn sau này thành trung đoàn 99.
Về đến nhà ông nhạc của Ba Sơn
thì trời tối. Ông già làm gà đãi con gái, con rể trở về nhà và vợ chồng tôi.
Sáng hôm sau Ba Sơn lên giồng tìm cho vợ chồng tôi một cái nhà bỏ hoang cách đó
chừng hơn một cây số. Như vậy cũng ấm cúng. Có chạy thì chạy chung không đến
đỗi cô đơn.
Đây là nhà của anh Ba Dành.
Cũng như ông Ba Còn bên An Thới, anh Dành bỏ nhà lớn ra ngoài đồng ở chòi. Anh
có ba đứa con nhỏ, chị lại có bầu. Xóm ấp không có trường trại gì hết nên anh
gợi ý cho vợ tôi mở lớp dạy học.
Một sáng kiến vĩ đại. Anh đứng
ra sửa soạn lại ngôi nhà lớn cho vợ chồng tôi ở, phần còn lại thì dùng làm
trường học. Thiệt là đơn sơ đến mức tối đa. Phòng của vợ chồng tôi dừng bằng
vài tấm lá xé trống hốc không có cửa buồng. Bên trong chỉ có một bộ vạc tre,
dây mây bện đầu đứt hết. Tôi phải sửa chữa lấy, nhưng cũng may, bốn chân còn
rất chắc. Đó là điều căn bản. Ngoài ra tôi đi tìm miếng ván làm cái kệ, ban đêm
đốt đèn để lên đó cho bớt hoang vắng.
Nhà còn một cái cũi chén và cái
bếp có chân cao khá tốt. Vậy là đủ. Cần gì hơn? Chiếu? Anh Ba cho một chiếc cũ.
Gạo? Mỗi đứa học trò đóng một lít mỗi tháng. Có hơn ba chục em trai lẫn gái.
Phân chia làm ba, bốn lớp. Đứa nào biết tới đâu dạy tới đó. Tôi hết sức lấy làm
lạ, vợ tôi không tỏ vẻ phiền hà buồn bực chút nào. Nàng nấu cơm, xách nước, dạy
học như công việc đã quen từ lâu.
Bà con lối xóm thấy cô giáo
siêng năng, dễ thương thì cho dừa khô , mắm, rau ăn thêm. Tôi ít khi giúp vợ
tôi phóng bài cho các em. Tôi chuyên trách một công việc khác vĩ đại hơn nhiều.
Đi chọp cá tép để ăn hằng ngày.
Dễ lắm. Tôi đi tìm một miếng
lưới rách, chặt bốn cành tre suông và một khúc tầm vông. Lúc còn nhỏ ở nhà tôi
vẫn thường đi chọp tép ở các ao mương. Bây giờ tái hành nghề
chẳng khó khăn gì. Gần nhà anh Dành có rất nhiều ao. Tối tối, tôi đi giăng lưới
bén, sáng dậy sớm đi gỡ cá rô đem về cho vợ làm rồi vác chọp đi
công tác. Gặp đàn bà đi chợ về, tôi xin vài nắm cám. Tôi vò vào đất sét quăng
xuống ao. Một chốc giơ chọp lên, tép nhảy tưng bừng coi mê
mắt.
Ăn không hết đem phơi khô đập
lấy ruột bỏ vô keo lâu lâu rủ cán bộ địa phương tới rai rai lấy cảm tình. Xã
Tân Hào đặc biệt có một ông phó bí thư không đi được mà chỉ lết tục gọi là Mười
Lết. Chính Mười Lết cho phép tôi đóng đô ở đây và cũng tới lui giúp đỡ tôi việc
này việc khác.
Anh kể rằng thuở bé anh cũng
khỏe mạnh như trẻ con khác nhưng y tá của bộ đội Bảy Cống tiêm thuốc ở mông anh
nhè trúng nerf sciatique nên anh bị xụi luôn chớ không phải
bẩm sinh. Tuy kém “cái bề chân đứng” nhưng lại rất đắt mèo.
Một cô y tá và một cô con gái bà má Hai đeo y và có lúc ghen tương suýt choảng
nhau. Người ta đồn rằng y có bùa hoặc ngón nghề gì đặc biệt, không rõ.
Nhờ gạo của học trò và cá tép
trời cho mà vợ chồng tôi sống cũng qua ngày đoạn tháng. Một hôm vợ tôi nhớ nhà
đòi về bên An Định. Hai đứa bàn rằng lính đóng đồn ở dọc lộ đá mình về sẽ lên
vùng An Huy đồng rộng mênh mông tá túc ở nhà cô Hai của vợ tôi sống cũng được.
Lính không bao giờ đi tới đó .
Hành lý đã gói ghém xong, vợ
tôi chờ tôi đi móc với đường dây là lên đường hồi hương. Sự thực tôi không muốn
đi vì liên lạc chỉ đưa mình đi tỉnh đi R chớ không dắt tới các xã. Hơn nữa đồn
bót mới không biết lối nào mà tránh. Ngoài ra còn biệt kích nghều như trấu.
Cũng may hôm ấy trời mưa. Cô giao liên Tỉnh Ủy ghé nhà tôi đụt mưa một cách bất
ngờ.
Tôi đi tìm trạm giao liên không
kết quả nên trở về nhà . Gặp cô ta, tôi hỏi thăm tình hình bên Cù Lao Minh. Cô
cho biết quân Bình Định đã chốt Cầu Sập, Cầu Ông Ngò, Ngã Tư Giồng Võ , chợ An
Thới, sắp sửa bỏ vòi xuống Tân Trung, Giồng Cui, Tân Huề. Như vậy là Mõ Cày và
Hương Mỹ được nối liền nhau bằng một hệ thống đồn bót đóng dọc trục lộ giao
thông chính của anh. Vợ tôi nghe vậy bảo:
- An Huy chưa bị đóng thì không
sao!
Cô liên lạc bèn cho biết:
- Kỳ này nó chơi ác, đóng luôn
An Huy, tại nhà bà Hai Sâm.
Vợ tôi giật mình lặng thinh hồi
lâu. Tôi biết đó là nhà cô Hai, ngôi nhà lớn nhất vùng, có lần nhạc phụ tôi chở
tôi lên đó ăn giỗ. Cô giao liên còn quơ tay:
- Tụi Bình Định ác thiệt. Nó đã
làm xong con lộ từ An Thới lên Thành Thới nối liền Thom. Con lộ này được đắp
cùng một lúc với ông Diệm xây ấp Chiến Lược. Mình phá ấp Chiến Lược xong phá
luôn lộ. Bây giờ đã sửa lại xe máy dầu chạy rầm rầm. Nó vừa tổ chức chạy đua cả
mấy trăm chiếc từ Mõ Cày xuống Ngã Tư Cái Quao, vô An Thới lên Thành Thới lên
Thom rồi trở về Mõ Cày.
Tôi nghĩ bụng vậy là nó chiếm
trọn Mõ Cày rồi ! nhưng không dám nói ra.
Cuộc hồi hương đành hủy bỏ. Nếu
lơn tơn về, dám bị biệt kích bắn chết. Trước đó có một cán bộ của tỉnh đội tên
là Phan Thảo vì hiềm khích nội bộ nên bị cơ quan cho nghỉ việc. Phan Thảo bèn
về quê vợ ở An Thới. Về chưa tới nhà đã bị bắn chết.
Tình hình càng ngày càng bi
đát. Một bầu không khí xám xịt bao trùm lên thôn xóm. Ai nấy đều tìm đường ra
thành hoặc vùng Quốc Gia mới kiểm soát. Tôi cũng nghĩ tới việc đưa vợ về quê,
không phải quê An Định mà là chợ Mõ Cày. Ở đó vợ tôi có rất đông bà con bên
ngoại.
Một bữa, Tư Mô lại ghé nhà tôi.
Tôi hỏi chân đầu ngay:
- Lại công điện R nữa hả bác
nó?
Tư Mô giới thiệu một người tóc
tai chân mày bạc phếu:
- Đây là anh Hai Liêm trưởng
ban Giáo Dục tỉnh.
Hai Liêm có vẻ hóm hỉnh. Anh
nhìn quanh rồi nói:
- Ở đây nó thường đổ quân bốn
chỗ . Giồng Đồng, Bào Sen, Giồng Chùa và Thạnh phú Đông, chú em phải định
trước con đường thoát. Đừng đợi nước tới trôn mới nhảy.
- Dạ tôi có nghiên cứu rồi anh
Hai.
- Nghiên cứu cách nào?
- Dạ sáng sớm tôi ăn cơm xong
thì lên quán bà Mười “đóng quân” lóng ngóng chờ chụp đặng
chạy.
Thấy vợ tôi không có ở nhà, Tư
Mô hỏi:
- Ủa, thím Hai đâu? Bộ chú gởi
về nhà rồi hả?
- Cổ tanh cơm tanh cá nằm trong
buồng!
Tư Mô cười:
- Chú giỏi lắm! ông già bà già
chú có tương lai rồi. Chú muốn trai hay gái?
- Trai gái gì cũng được miễn
tía má tôi có cháu bồng thì thôi.
- Tôi cả thảy năm đứa. Mậu Thân
vừa rồi mất một thằng đực, mà chết cháy thế mới đau!
Ba ông táo ngồi uống trà nói
toàn chuyện trốn, chạy, lủi, chém vè… Tư Mô nói:
- Lúc trước ở Thành Thới, tụi
tôi bị một trái rốc kết cá lẹp phóng sém miệng hầm.
Hai Liêm xua tay:
- Cá lẹp bắn dai như trâu đái,
còn phóng rốc kết thì một phát bốn trái. Vô phước kẻ nào bị nó phóng thì không
còn miếng xương. Ở An Thới, anh út chủ quán gần chợ bị chụp bốn quả. Thấy ớn
quá trời.
Nhìn quanh nhà, chiếc võng lát
rách nát mắc ở gần cửa sau, anh đi tới lấy chân đá đá và cười nhếch mép:
- Đây là cái võng Mậu
Thân. Hì hì… vì nó chỉ còn có hai cái đầu, còn mình thì nát hết.
Bỗng nghe đầm già “khảy
đờn cò” trên trời. Hai Liêm lại pha trò:
- Buổi trưa mà hòa nhạc kiểu đó
chắc không ổn đó hai chú ơi !
Trông ra cửa nhìn lên trời và
nói:
- Nó không liếc phía nào mà chỉ
bay thẳng xuống Sơn Đốc.
- Nó quay lên rồi “cáo…
đùng” mấy hồi.
Bỗng nghe oang oang từ trên
trời vọng xuống:
Nghe đây! Hồ Chí Minh Đã Chết!
Nghe đây! Hồ Chí Minh Đã Chết!
Ba người dòm nhau, không hiểu,
không tin ở lỗ tai mình.
Hồ Chí Minh Đã Chết !
Tiếng loa giữa không trung làm
rỡn tóc gáy. Hai Liêm sửng sốt:
- Chuyện gì vậy kìa?
Tư Mô bảo.
- Để nghe vài ba lần nữa coi !
Tôi lắc đầu:
- Rõ rồi, còn gì nữa?
Ba người ngồi êm rơ, dãn tai
nghe. Vẫn một giọng đó. Vẫn những tiếng đó vang vang cả bầu trời . Bỗng vài tờ
giấy trắng lắc lư loạng choạng rơi xuống trước sân. Tư Mô hỏi.
- Giấy gì vậy?
Tôi chạy vụt ra lượm rồi đưa
lên mắt đọc. Cũng những chữ đó. Nhưng bây giờ không chỉ nghe mà đọc cụ thể
hơn: “Hồ Chí Minh Đã Chết!” Bên cạnh những chữ đó còn có tấm
hình lão già bị cái gạt tréo lấp cả mặt. Và những dòng chữ li ti. Tôi vào nhà
đưa cho Tư Mô. Hai Liêm vừa xem vừa lắc đầu:
- Có lý nào?
- Để chiều nay nghe BBC thì
biết.
Tôi không nói gì, lấy đài ra mở
liền. Tiếng nói quen thuộc vang ra từ đài Hà Nội, giọng buồn rầu kể lể:
- Đây là bản tin liên tục phát
thanh từ Đài Tiếng Nói Việt Nam! Hồ Chủ Tịch bị cảm nặng từ lâu, Trung ương
Đảng đã hết lòng chạy chữa. Các lương y Trung Quốc, Liên Xô và các nước anh em
cũng được mời sang để chẩn mạch cho thuốc cho người nhưng vì tuổi già sức yếu
cùng với những năm tù đày bôn ba liên tục, nên người đã từ trần hồi… giờ… phút
ngày 3 tháng 9 năm 1969.
Một ủy Ban Tang Lễ đã được
thành lập do đồng chí Lê Duẩn Tổng Bí Thư Đảng làm trưởng ban, gồm có các đồng
chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, . . . làm ủy viên. Linh cửu
của Chủ Tịch Hồ Chí Minh sẽ quàn lại Phủ Chủ Tịch để các đoàn thể nhân dân và
đại biểu các Đảng CS anh em trên thế giới tới phúng điếu…
Tôi vặn nhỏ lại và nhìn Hai
Liêm. Hai Liêm nói:
- Như vậy là có thiệt rồi hai
chú.
Thấy tôi và Tư Mô không phản
ứng gì hết, anh tiếp:
- Mình bị một cái Mậu
Thân vừa rồi, bây giờ bị cú này nữa, thiệt là mậu hẩu.
Tôi nói:
- Kẹt cái là ổng “đi” gần
trùng ngày Quốc Khánh.
- May mà ổng còn chịu nổi một
ngày nên rơi vào ngày 3 tháng 9, nếu “đi”vào ngày 1 hoặc ngày 2 thì
càng mậu hẩu nữa.
Tư Mô hờ hững:
- Trước sau gì cũng vậy thôi !
Hôm đó trở đi, ngày nào đầm già
cũng ở trên mây loa xuống, “Hồ Chí Minh đã chết”. Lâu lâu lại đổi
dĩa kêu gọi “Anh em cán binh VC hãy quay về với chánh nghĩa Quốc
Gia” kết thúc lời kêu gọi là cái điệp khúc “Chiêu Hồi hoặc là
tử thần!”
Nghe mà run từng miếng thịt chớ
không phải chơi !
Tư Mô và Hai Liêm ở lại tổng
hành chòi của tôi chơi hai ba ngày luôn tiện cùng nghe đài Hà Nội và BBC về cái
chết của ông Hồ. Trước khi từ giã chúng tôi, Tư Mô cho tôi một tin giật gân. Tư
Mô hỏi tôi:
- Chú có người cậu nào làm ở
Ban Tài Chánh Tỉnh không?
- Tôi chỉ có một người cậu đi
kháng chiến với anh đó thôi!
- Ấy tôi gặp ổng, ổng bảo ổng
là cậu của chú. Quê ổng ở Cẩm Sơn.
Tôi lẩm nhẩm một lát rồi gật:
- Nếu vậy ông là… con của mấy
ông bà bên họ ngoại tôi nhưng các cậu đông lắm tôi không biết là ai.
Tư Mô rỉ tai tôi rồi cười vang:
- Nếu vậy thì có lý lắm. Hiện
giờ mình đang cạn “nguồn sống”. Trên R chơi vậy là hết đường tương
chao!
- Chó chơi ! Tôi ở luôn dưới
này coi lão Tư Siêng làm gì?
Tôi vào buồng nói gạt vợ tôi là
Tỉnh Ủy gọi đến có chuyện gấp. Vợ tôi vốn không muốn cho tôi đi đâu. Chỉ trừ
buổi sáng đi lên giồng nằm khểnh trong quán bà Mười chờ chụp thì nhảy. Ngoài ra
tôi cũng không muốn bỏ vợ ở nhà một mình, rủi có chuyện gì biết nhờ ai?
Tôi xách chiếc túi con, giắt
súng trong lưng rồi đi với hai ông già.
Hai Liêm rất rành đường đi nước
bước nên dắt tôi và Tư Mô một buổi thì tới bờ sông Long Mỹ. Cây cầu sắt bị đánh
gãy gục xuống sông, mấy cái trụ đứng chôn chân giữa sông ngóng cổ kêu trời
không thấu. Hai bờ sông đầy những lá dừa nước như rừng. Hai Liêm trỏ qua bên
kia sông bảo:
- Mấy giả đóng bên đó. Đi vòng
thì xa lắm. Nhưng nếu bơi qua sông thì đụng ngay. Các chú muốn hành thuyền hay
kỵ mã?
Tư Mô ngó tôi. Tôi hiểu ý, nói
ngay:
- Nếu mấy ổng đóng bên kia sông
thì để một mình tôi “hành thuyền” cũng được.
Tư Mô móc trong túi ra con dao
sáu lưỡi rất bén luôn luôn bất ly thân cắt một cái bập lá ném cho tôi.
- Thuyền nè !
Tôi tự hào một cách cảm tử:
- Không cần !
Nói xong tôi giao đồ tế nhuyễn
cho anh, cởi trần bận quần tiều tay cầm quần áo rồi phóng xuống sông bơi như
đua… kiểu sải, kiểu chó và kiểu trẻ con đập tầm vũng trong mương. Lâu quá không
có dịp trổ tài ráy cá, nay mới gặp sông. Tư Mô thấy tôi bơi khá nhưng sợ tôi bị “vọp
bẻ” nên ném cái bập lá chận đầu.
Quả thật, anh hiểu sức khỏe của
tôi đã bị Trường Sơn róc gần hết rồi Đồng Chó Ngáp cạp cũng bộn bàng, về đồng
bằng chạy đua mấy chục trận với trực thăng, nay gặp con sông Lưu Sa Hà này sợ e
khó vượt.
Tôi chỉ cảm thấy điều đó khi ra
đến giữa sông, nước chảy mạnh. Nếu không có cái bập lá chắc phải vất vả và có
thể bị tắp vào chân cầu. Nhưng cuối cùng nhà thể thao vẫn tới mé bờ. Tôi quay
lại vẫy tay rồi bươn lên bãi lá lội lên bờ đi theo sự chỉ vẽ của Hai Liêm.
Quả thật tôi tìm được ông cậu
tôi. Nhờ xưng tên tuổi mà hai cậu cháu nhận ra nhau chớ không ai biết mặt ai
cả. Cậu hỏi tôi có về thăm quê cụ ngoại không? Tôi mô tả sự hoang tàn của các
ngôi nhà ở Cẩm Sơn. Cậu nói:
- Tao biết lâu rồi. Nhưng làm
gì được! Cách mạng là như thế cháu ơi !
Tôi hiểu sở dĩ người ta cho cậu
giữ tiền của tỉnh là vì cậu thuộc thành phần phi vô sản. Không phải người ta sẽ
lấy đất đai nhà cửa của cậu, vì còn đâu mà lấy, nếu cậu thụt két, nhưng đây là
vấn đề tâm lý. Các ngài địa chủ đã quen giữ tiền bạc nên khi ôm một bao đầy ắp
không bị lóa mắt, còn các ông bần cố thì khó chưa từng thấy của, gặp bao bạc là
ôm nhảy ra thành liền. Kinh nghiệm phổ biến cho thấy là thành phần bần cố tham
ô bạt mạng cô hồn vượt các thành phần khác gấp năm lần.
Cậu hỏi tôi:
- Mày cần bao nhiêu?
- Biết bao nhiêu mà nói, cậu?
- Mày có biết là ở R ra lệnh
cắt sinh hoạt phí của mày không?
- Dạ biết, đó là chuyện lâu
rồi.
- Mới đây nữa ở trên vừa tống
thêm một cái công điện gắt gao hơn.
- Nói gì trong đó cậu?
- Trên đó bảo Tỉnh Ủy không cho
mày ở trong tỉnh nữa.
Tôi cười phì. Cậu hỏi:
- Mày mới cưới vợ mà có được
tiếp tế của gia đình không?
- Cháu có gởi người về nhưng
lính bao vây ngặt quá nên không ai đi tới nhà cháu cả. ..
Cậu nói:
- Tình hình này ôm tiền nhiều
không có lợi, nên Tỉnh ủy bảo phân tán. Do đó tao nghĩ tới mày. Mày cầm bấy
nhiêu đây về chia cho mấy ông bạn mày với. Nên đi hai người. Có bề gì giúp
nhau, mày đi một mình nguy hiểm.
Cậu đưa cho tôi một gói bạc và
hỏi:
- Vợ con mày bỏ ở đâu?
- Cháu dắt theo chớ An Định bị
đóng bót rồi . Ông nhạc cháu cũng chạy, cháu đâu có gởi vợ cháu được.
- Bây giờ nó ở đâu?
- Dạ ở bên Tân Hào.
- Tân Hào mà ở ấp nào?
- Dạ không biết ấp nào mà ở gần
Giồng Đồng.
- Sao lựa chỗ nó hay chụp mà ở
vậy cháu?
- Đâu có chỗ nào khác nữa cậu!
ở đây đâu có bà con dòng họ gì mà trú ngụ .
- Mày tới đây bằng cách nào?
- Dạ bơi qua sông.
- Trời đất! Rủi chết hụt làm
sao? Để tao biểu tụi nó lấy xuồng đưa cho về.
Tôi đứng dậy tự hào lần nữa:
- Dạ cháu dư sức bơi qua cậu à
.
Tôi trở về bờ bên kia và được hai
lão tướng đón tiếp như một anh hùng thắng trận.
Hai Liêm cười móm mém:
- Mẹ kiếp ngồi buồn lại gặp
chiếu manh!
Chúng tôi biếu ông bạn già một
ít như một cách trả ơn chỉ đường, còn bao nhiêu chia đôi. Mỗi đứa được 16 ngàn
trong khi gạo 30 đồng một lít. Trên đường trở lại nhà, tôi ghé quán ở Ngã Ba
Giồng Chùa mua đủ thứ vừa thức ăn, thức nhẩm xà , thức uống trà , thức phì phà
và dầu Nhị Thiên Đường, cù là, kí nín…
Tư Mô không quên mua một chục
ống Tranquinol để hằng đêm xoa dịu thần kinh. Còn anh Hai Liêm thì mua một chục
rê thuốc giồng rọc cọng để thủ sẵn trong ba lô.
—>Chương 19
- 19 -
Về tới nhà thì thấy đèn đuốc đỏ
rực, người ta lao xao. Hai Liêm hỏi tôi:
- Bộ ông bà nông dân lấy nhà
chú làm điểm họp hành sao vậy?
Tôi pha trò.
- Đó là trường tiểu học hỗn hợp
đó anh Hai. Anh có huấn thị gì không?
- Tiểu học gì? Sao tôi chưa
hay? Huấn thị cái con khỉ già .
- Nó không nằm trong hệ thống
Giáo Dục của anh nên anh không biết chớ gì.
Khi vào nhà anh mới vỡ nhẽ ra
đó là lớp học của vợ tôi. Ba chục trẻ con chớ ít ỏi gì! Nhưng để bảo đảm sinh
mạng học trò lẫn cô giáo, lớp học phải tiến hành ban đêm. Không có bàn ghế,
không có bảng đen, không cố phấn. Mỗi đứa phải mang dầu đèn và một tấm ván nhỏ
để kê trên bắp vế làm bàn. Tôi lấy một tấm cửa ván dựng lên và vợ tôi có sáng
kiến lấy than trong bếp thay cho phấn.
- Rủi trực thăng soi, pháo bắn
rồi làm sao?
- Thì cứ nằm xuống, tắt đèn,
sống chết phó cho trời.
Hai Liêm lắc đầu:
- Cái Ban Giáo Dục của tôi đến
giải tán mất. Sự thực hiện giờ Ban Giáo Dục chỉ còn trên danh nghĩa. Toàn tỉnh
đâu còn cái trường nào. Giáo viên thì đi bồi mía, gặt cấy mướn hoặc làm việc
khác để kiếm sống, còn học trò thì cha mẹ bắt ở nhà hết ráo!
Ngày vui ngắn chẳng đầy gang.
Vừa được tiền chiều nay thì sáng mai bị chụp to. Sư Đoàn 9 hành quân trên Cao
Mên đuổi Việt Cộng hơi mệt nên tìm nơi dưỡng quân. Tội nghiệp, xã Tân Hào được
chọn làm nơi nghỉ xả hơi của họ.
Tôi đành phải chạy theo Hai
Liêm và Tư Mô, bỏ nhà bỏ vợ mất ba ngày. Ba Dành là người tốt bụng nên thấy tôi
vắng nhà thì đem vợ tôi về cải trang thành cô thôn nữ lọ lem ở chung trong gia
đình. Một đơn vị của Sư Đoàn 9 đóng ngay trong vườn chuối của Ba Dành.
Khi họ rút đi, tôi mới trở về,
bụng phập phồng lo sợ, không biết chuyện gì đã xảy ra ở nhà. Chẳng ngờ vợ tôi
vui vẻ và tỉnh bơ kể chuyện lại với tôi:
- Lính Sài Gòn tinh mắt thiệt
anh ạ !
- Tại sao?
- Họ hỏi em sao mặt mày sáng
sủa vậy mà không ra thành ở? Em nói loanh quanh một hồi, một người trong đám họ
bảo: cô này là dân thành chớ đâu phải dân nông thôn. Họ thấy con anh Dành nhặm
mắt, họ cho pommade xức.
Nàng kể tiếp:
- Họ bắt được ông Mười Đờn ở
Văn Công tình với cây đờn kìm. Ổng định leo lên ngọn dừa mà trực thăng bắn rát
không leo kịp.
- Rồi làm sao?
- Khi biết được ổng là Văn Công
thì họ bảo ông đờn cho họ nghe rồi họ thả (*)
(*) Tôi có viết truyện này
trong tập “Con Người Vốn Quý Nhất” xb hồi 1989.
- Trời đất, thiệt à?
Chị Ba Dành thêm vô:
- Thiệt mà chú Hai. Cái ông đờn
kìm đầu bạc trắng. Ổng ngồi trên cối giã gạo ổng đờn lẳn tẳn con nít bu lại như
coi văn công . Ổng đờn một hồi rồi ông chỉ huy cho gói thuốc biểu về nhà làm ăn
đừng theo Việt Cộng nữa, kỳ sau bắt được không tha. Việt Cộng là ai vậy chú
Hai?
Chị hỏi tôi. Tôi cười:
- Việt Cộng là ông Ba Dành hội
viên nông hội đó!
Tôi dắt vợ tôi về nhà và móc
trong túi ra cả nạm me chín lẫn me dốt. Lâu nay cô nàng thèm chua nên mỗi lần
chạy, bận về, gặp me, khế, ổi, tôi đều xin đem về thưởng cho nàng. Cây me già ở
Ngã Ba Giồng Chùa đã ban cho chúng tôi nhiều ân huệ nhất. Vợ Ba Sơn cũng đang
mang bầu, nên thỉnh thoảng tôi lại nghe tiếng gọi từ ngoài đường vọng vô:
- Anh Hai ơi t Đi Giồng Chùa
không?
Thì tôi biết đó là công tác
trèo me của hai thằng đàn ông sắp được làm bố. Ba Sơn là người tốt bụng vô
cùng. Lúc nào chạy chụp mà có y thì tôi khỏi lo đói. Vì vùng này toàn là bà con
bên vợ y. Có nhiều bữa gặp đám giỗ, tha hồ bồi dưỡng cặp giò.
Thấy tình hình quá căng thẳng,
tôi và Ba Sơn tìm chỗ đào hầm bí mật. Chúng tôi làm được một cái. Đất giồng,
toàn cát, dễ đào, lại không ngập nước. Chúng tôi chỉ dùng có một lần. Đó là lần
duy nhất trong đời tôi sống dưới hầm bí mật trong ba tiếng đồng hồ. Cũng may,
lính chỉ đi qua. Nếu chúng đóng quân thì không biết cách nào chui lên. Nhớ tụi
thằng Lê Anh Xuân và thằng Hồng Đức chết ngộp dưới hầm ở Long An mà ớn quá. Ba
Sơn biết tôi có cây “cun” trong túi xách con nên dặn:
- Hễ bị moi thì mình bò lên chớ
anh đừng bắn nghe anh Hai. Để mình sống mà nuôi vợ nuôi con!
Tôi bảo thầm: Chú mày đừng lo
tôi bắn. Nó vừa đến là tôi chui lên liền, không đợi mời. Tôi mà bị bắt như Mười
Đờn thì được tha tôi không về!
Tôi luôn luôn bàn với Ba Sơn
nay mai lấy nhà bảo sanh ở đâu cho vợ đẻ? Ba Sơn cho biết y sẽ gởi vợ về gia
đình ở thị xã Bến Tre. Y hỏi.
- Còn anh?
- Chắc cũng phải vậy thôi.
Nhưng tôi gởi về Mõ Cày.
- Phải tính sớm đi anh ạ . Tôi
coi bộ tình hình căng đến nơi rồi.
- Nó xơi tái xong Cù Lao Minh
thì nó sẽ sang xào ròn Cù Lao Bảo chớ chạy sao khỏi.
- Bên này khu giải phóng hẹp
hơn bên Minh nhiều.
Muốn có vợ thì đã có vợ. Muốn
có,con thì sắp có con. Còn muốn gì nữa. Côn nhiều chứ! Muốn cho vợ con an toàn,
no ấm, muốn cho gia đình sống chung được một mái nhà không chồng Bắc vợ Nam.
Làng tôi giờ đây nát như tương. Việc nhà việc nước không xong việc nào.
Số là tôi có hai thằng em,
thằng Tâm con cậu Bảy, thằng Đức con dì Năm. Hai đứa thi rớt Tú Tài sợ ở lại
Sài Gòn bị bắt đi quân dịch nên cậu và dì tôi giữ chúng ở lại nhà ngoại tôi,
nhưng ở lại nhà thì lại bị Giải Phóng bắt dân công chiến trường nên một lần,
hồi ngoại tôi còn tại đường, tôi về thăm nhà thì dì và cậu tôi gởi hai em đi
theo. Không gì thì cũng nối được chí của cha mẹ ngoài ra còn tránh được cái vụ
quân dịch. Dân Miền Nam thời đó khổ thay. Sống giữa lưới đạn bom. Không biết
phải tránh né bên nào. Theo VC thì ăn đạn Quốc Gia. Theo Quốc Gia thì xơi mã
tấu Cộng Sản.
Cậu Bảy tôi đã từng tham gia
kháng chiến chống Pháp, còn dượng Năm tôi là chiến sĩ cách mạng từng bị tù Côn
Đảo. Nay hai em tôi đi theo giải phóng thì cũng xuôi chèo lắm, hơn nữa dưới
sự “dìu dắt” (!) của tôi thì vui biết chừng nào. Tôi đem gởi
thằng Tâm cho chị Sáu Hòa Phụ Nữ Giải Phóng Tỉnh còn thằng Đức được Văn Công
nhận vào đoàn. Vào đây Đức phải lòng một cô nữ diễn viên múa . Đức muốn tôi nói
đùm một tiếng. Nhưng tôi biết những cô nhảy cóc nhảy nhái này. Trong khu có
câu: “Má văn công, mông hộ lý (hay y tá)” nên gạt ngang. Nó cũng
biết nghe lời nên quác ra. Về sau khi đoàn chạy thục mạng qua Tân Hào thì cậu
em lại để ý một cô con nhà dân giả ở gần mé sông Cái Hàm Luông. Tuy cách sông
như vậy, nhưng Tân Hương Tân Hào đường chim bay thì chỉ chừng ba, bốn cây số.
Ngày trước bộ đội anh Hai Phải từ Vàm Cái Mít băng qua Vàm Tân Hương bằng xuồng
bơi trong vòng một tiếng đồng hồ.
Đức bèn nhờ người về Tân Hương
rước dì Năm tôi sang cưới vợ cho nó . Dì Năm tôi lên bến Tre và đi đò máy
xuống.
Do đó tôi mới có dịp gặp dì Năm
tôi. Và cơ hội “ngàn năm có một”: Tôi gởi vợ tôi về nhà. Bấy giờ
cái bụng của vợ tôi đã lớn. Đêm nào tôi cũng để tay lên bụng vợ tôi để nghe đứa
con máy, có khi máy mạnh, có khi máy nhẹ , nhưng tôi đều nghe cả đất trời rung
rinh theo “cái máy” của con tôi. Có niềm vui nào hơn niềm vui
của thằng con trai sắp được làm cha. Chạy chụp về tới cửa, câu đầu tiên của tôi
là: “ở nhà con có máy không em?” Vợ tôi đáp: “Có! Con
máy hai ba lần!” Tôi cụ thể hơn: “Mấy cái mạnh, mấy cái nhẹ ?” Đêm
nằm, tôi luôn luôn thủ sẵn chiếc đèn pin trên
tay, hễ vợ tôi kêu: “Con máy mạnh đau quá!” thì tôi bật đèn
lên để nhìn con tôi máy trong bụng vợ. Thật là huyền diệu, mầu nhiệm thay đấng
Hoá Công đã tạo nên con người.
Vợ tôi phải bỏ dạy một đêm để
chia tay với đám học trò. Cô giáo vườn và đám học sinh ngây ngô nhếch nhác
quyến luyến nhau vô cùng. Chúng khóc mùi mẫn. Con của anh Ba Dành, thằng Bút,
thằng Tải, thằng Luận, con Nâu, con Yến… là những người bạn tí hon của chúng
tôi trong những ngày tá túc ở đây. Chính chúng là niềm vui của vợ chồng tôi.
Thằng Tải giỏi ngoéo cua biển. Mỗi lần bắt được một con, nó đem lại cho, chúng
tôi trả tiền, nó không lấy. Nhà thằng Định có nhiều dừa khô, thỉnh thoảng nó
xách đến cho chúng tôi một cặp. Đêm nào cũng vui như đêm nào nhờ có tiếng học ê
a của chúng. Bây giờ bỗng đứt ngang tình cảm. Tôi bảo tôi sẽ dạy tiếp theo cô
giáo, nhưng sau đó tôi buồn quá lơi dần, rồi nghỉ hẳn.
Tôi gói ghém mọi món đồ tế
nhuyễn của vợ tôi dồn vào cái xách tay bằng ni-lông, gia tài chỉ có thế, rồi
đưa vợ ra Thạnh Phú Đông, gần bến đò máy đi Bến Tre. Vợ chồng tôi ở tạm trong
nhà bà suôi sau này của dì Năm tôi.
Dì Năm ôm vợ tôi khóc ròng. Đêm
đó tôi không ngủ được vì xa vợ xa con.
Đêm chia ly, tôi nằm bên vợ
tôi, tay để trên bụng vợ chờ nghe con cựa mình để cảm thấy giờ phút làm cha gần
hơn, để được sờ đứa con rõ hơn qua làn da bụng của vợ.
Mới đám cưới đây mà đã có con.
Lạy Trời, lạy Phật. Tôi xin đội ơn Người đã mang đến cho tôi và dòng họ tôi một
niềm vui vĩ đại mà suốt hai mươi năm theo đảng tôi đã bị chúng cướp mất.
Tôi dặn vợ tôi đủ thứ chuyện
như một bà già xưa. Nào đừng có làm công việc nặng, đừng có bước lên bước xuống
thềm cao, đừng xem đánh lộn, đừng ăn món gì và nên ăn món gì.
- Anh muốn em về đâu? Về má
trên An Định hay má dưới Hương Mỹ ?
- Má nào cũng được, miễn về nhà
mình thì thôi.
Tiếng còi điện của đò máy văng
vẳng đưa từ phía Sơn Đốc. Người đi thị xã Bến Tre lục tục kéo ra bến. Họ từ
trong vườn men theo một bờ ranh lớn, gánh, xách rau cải bầu bí gà vịt, khiêng
cả heo đem lên thành bán. Tiếng người trò chuyện, tiếng gà vịt heo cúi hòa lẫn nhau
cùng với những ngọn đuốc chấp chới trong buổi hừng đông, làm thành một nét sinh
hoạt đặc biệt của khu giải phóng. Dì Năm tôi bảo:
- Dì đưa vợ cháu về nhà ngoại ở
Tân Hương trước, dì sẽ nghe ngóng tình hình trong Hương Mỹ rồi nếu êm ái dì sẽ
đưa nó về nhà cháu ở với má cháu. Nếu tình hình còn lộn xộn thì dì để nó ở với
dì một thời gian rồi sẽ tính sau. Chừng nào nó sanh xong, cứng cát dì sẽ đem mẹ
con nó qua thăm cháu. Ờ, chắc chừng đó sẽ tới đám cưới thằng Đức. Mọi việc đã
xong, chờ ngày cưới.
Đèn pha sáng rực của chiếc đò
máy xuyên thủng màn sương lù lù tới. Khách khá đông nhưng không ai chen lấn vì
nếu hụt chuyến này còn chuyến khác ngay sau đó. Vợ tôi gục đầu vào vai tôi, nức
nở, không ra lời.
- Anh ở lại cho cẩn thận, ít
bữa em qua !
Tôi không nói gì hết. Đã nói cả
ngàn chuyện đêm qua rồi. Tôi rọi đèn pin lên chiếc đòn dài và dắt nàng bước lên
đò. Mọi cuộc biệt ly đều giống nhau: nước mắt và hứa hẹn tái ngộ. Dì Năm tôi
bảo:
- Lên tới Bến Tre dì sẽ ghé nhà
mợ Tám và nhắn tin cho cháu.
Nhà mợ Tám tôi bị cháy rụi
trong Mậu Thân nay mới dựng lại bằng tôn gỗ của Ty Xã Hội cấp. Sau này, khi hồi
chánh, tôi đi thẳng một mạch từ Châu Đốc xuống đây và bảo thằng em con mợ lên
báo tin cho Bộ Chiêu Hồi.
Đò lui. Tôi nghe như chết nửa
thân người. Từ trước tôi chỉ chia tay với người yêu. Lần này chia tay vợ và
con. Đau khổ gấp trăm lần. Sông Hàm Luông, một trong những ngành lớn của Cửu
Long Giang, tôi đã vượt qua cả chục lần từ 1945 tới nay, bây giờ tới vợ con
tôi, con sông máu và nước mắt. Tuy từ đây lên thị xã đò chỉ chạy ba tiếng đồng
hồ, nhưng tôi vẫn lo sợ.
Tôi trở lại nhà nhạc mẫu em
Đức, chờ tin từ Bến Tre. Chiều hôm đó, đò về tới. Chủ đò cho tôi biết rằng vợ
tôi đã tới Bến Tre.
Tôi càng nung nấu ý chí về
thành. Một ngàn cái cách mạng, một trăm cái giải phóng này tôi cũng bỏ. Mười
năm ở Hà Nội tôi trốn không thoát. Ba năm ở Miền Nam việc bỏ CS chỉ là một bước
như, nhưng gia đình tôi còn ở ngoài khu giải phóng. Tôi đi là bọn du kích mừng
lắm vì chúng sẽ có cớ bắt má tôi và cướp của cải tôi. Tôi nằm ở đây ẩn nhẫn chờ
quân Bình Định hoàn thành việc chiếm đóng Cù Lao Minh là xin chào. Không luyến
tiếc chút gì.
Nói thì dễ, nhưng trên thực địa
thì không. Đã lỡ tay trót đã nhúng chàm rồi, khó rửa sạch, cũng như theo Cộng
Sản không dễ gì rứt ra. Cộng Sản không rộng lượng như người Quốc Gia. Chúng là
loại người đê tiện nhất thế gian. Chúng có thể làm bất cứ việc gì để trả thù.
Tôi trở lại nhà anh Ba Dành với
một tâm sự não nề chán chê tê tái. Giá tôi vứt ba lô súng ngắn nhảy xuống đò đi
luôn với vợ tôi thì giờ này tôi đã ở nhà mợ Tám tôi, rồi ra chợ uống nước đá,
hoặc dạo chơi ở bờ Hồ giếng nước cũ Bến Tre rồi.
Về sau, các vị trong Ban Chỉ
Huy đoàn Văn Công Tỉnh đã chuồn về thị xã bằng những chuyến đò máy này. Một tay
là trưởng đoàn, nhạc sĩ đờn kìm đã từng vô dĩa Pathé, một tay là bí thư chi bộ
đoàn. Cả hai đã ngụy trang thành những ông già rồi rã bành tô luôn. Nhiều em về
nhà trong vùng Quốc Gia vừa chiếm lại, lấy chồng, nhiều em vọt thẳng lên Sài
Gòn. Sau này có vài em gặp tôi. Số còn lại bị hốt ở Thạnh Phong, sẽ kể tới.
Về đến nhà gặp chị Ba Dành và
mấy đứa con đang quét dọn sân trước. Chị Ba hỏi.
- Chú đưa thím ra đò rồi hả?
Đám con chị cũng hỏi làm cho
tôi suýt bật khóc.
- Thím Hai chừng nào trở lại,
chú Hai?
Tôi vò đầu chúng, an ủi:
- Ít bữa thím qua.
Tôi vào nhà, vô buồng. Hoang
vắng kinh hoàng. Tôi ra sau múc nước rửa mặt. Thấy như vợ tôi còn đó, đứng xách
nước đổ vô lu và lóng phèn để xài hằng ngày. Một lần tôi chạy chụp về, thấy vợ
tôi ngồi nôn ọe bên chiếc lu. Cả tôi lẫn nàng đều không biết đó là hiện tượng
gì. Mãi sau vợ Ba Sơn mới cho biết và Ba Sơn rủ tôi đi hái me ở Giồng Chùa. Gói
me, trái bưởi tôi đem về kỳ rồi, nàng còn bỏ lại đó càng gợi thêm buồn. Tôi ra
sân nói mấy lời cảm ơn chị Ba trước khi dời địa điểm. Chị la lên.
- Chú đi đâu? Thím đi về thì
chú ở đây với vợ chồng tôi chớ? Tụi nhỏ mến chú thím lắm.
- Tôi cũng ở gần đây thôi chị
Ba à ! Thỉnh thoảng tôi đến thăm anh chị và các cháu.
Tội nghiệp con nít xóm này mới
học được nhấp nhem, bây giờ không có cô giáo. Tôi phải gạt nước mắt lặng lẽ ra
đi. Trong đám dân địa phương chạy chụp dù tôi có quen với Sáu Tiến. Tiến là chi
ủy viên xã, có đi học lớp đào tạo cán bộ gì đó trên R, có nghe Trần Bạch Đằng
diễn thuyết. Tôi tìm tới y chớ không nhờ Mười Lết nữa, để nhờ giúp cho tôi một
chỗ ở. Sáu Tiến dẫn tôi đến nhà Năm Tích là anh ruột của y và gởi tôi ở
đó “cho có bạn” chạy với nhau. Năm Tích chỉ có một đứa con gái
chừng mười tuổi . Vậy là chuyện ăn ở rất gọn.
Tôi cố gầy dựng lại lớp học của
vợ tôi để có gạo ăn, ba chục lít một tháng là một nguồn lợi rất lớn, và giữ quan
hệ với bà con trong xóm, để có việc gì thì được sự giúp đỡ, như đau ốm, nhất là
bị thương tìm được cái gọi là “y xá”trong khu giải phóng cũng không
dễ hơn ở Trường Sơn. Người ta giữ bí mật triệt để, đến nỗi thương binh tìm
không
ra phải khiêng trở về và đành chịu chết.
Đó là trường hợp của em Hồng,
một thanh niên ở xóm. Nhà Hồng khá giả có ruộng và nhiều đìa ao, nơi tôi thường
chọn tép đã kể trên kia. Một hôm Hồng khoe với tôi sẽ tát cái ao trước cửa nhà
và mời tôi đến ăn tôm nướng. Tôi cũng đến hụ hợ để chốc nữa ăn cho mạnh miệng.
Nước giựt xuống quá nửa ao. Bùn
đất bị khuấy lên. Tôm càng xanh bị xốn mắt nổi lên quơ râu đỏ cả mặt nước. Hồng
kêu cô em gái cắt rau sống và đi mua bánh tráng ở lò gần đó. Tất cả hứa hẹn một
bữa tôm nướng đã đời. Nước còn chừng một gang thì lộ đáy ao, Hồng lội xuống quơ
bắt những chú tôm càng xanh đang hết nước sống. Khi ra tới giữa ao Hồng càng
quơ mạnh. Tôm đầy một giỏ đìa.
Bỗng “ụp” một
tiếng. Bùn chung quanh Hồng bắn lên. Một người trên bờ reo lên:
- Cha chả, cá trê trắng to lắm.
Hồng nhăn mặt và biến sắc. Một
ông già bảo:
- Bộ bị cá trê chém rồi hả?!
Không sao, tôi có bùa. Ngắt cái đuôi nó dán vào vết thương và miệng nói “không
nhức, không nhức”, chừng một hồi thì khỏi.
Nhưng Hồng khuỵu xuống và gục
mặt trong bùn. Không ai rõ chuyên gì lạ vậy. Mấy người đứng gần đó nhảy xuống
lôi Hồng lên. Chân phải của Hồng máu me dầm dề . Không phải cá trê trắng mà là
lựu đạn. Trời ơi! Ác thế! Cô em gái Hồng chạy đi báo tin. Ông già của Hồng đang
làm ngoài đồng nghe vậy chạy bò càn. Bờ lộ không đi, ông lủi dưới mương, vừa
lội vừa la như điên.
Vết thương Hồng đã được băng
bằng cả chiếc mùng cũ xé ra. Nhưng máu không ngưng chảy. Bị thương ở giữa đất
sình, vết thương làm độc. Hồng bất tỉnh ngay sau đó. Hồng được chở đi tìm bệnh
xá, quân y xá, đủ thứ xá, bất cứ chỗ nào để được một tí thuốc đỏ bôi vào và một
bàn tay cứu thương mó tới, nhưng chèo đi ba đồng bảy đổi suốt nửa ngày và một
đêm. Đến chỗ này, người ta bảo ở chỗ kia, đến chỗ kia lại được biết y xá mới
vừa dời. Rốt cuộc, cậu thanh niên 18 tuổi chết vì phong đòn gánh.
Người nhà cậu chửi rủa mấy ông
nội du kích lúc trời mưa ghé lại rửa chân đã làm rớt lựu đạn dưới ao rồi không
dám mò, bỏ luôn. Nhưng mấy ông nội thì đổ thừa đó là đạn M79 của Thủy Quân Lục
Chiến mới vừa càn.
Thiên hạ hoang mang không ai
dám chịu cha ăn cướp. Lúc cởi băng ra lau vết thương để tẩn liệm cho thằng nhỏ
thì thấy một miểng lựu đạn trong quần cậu ta.
Chuyện du kích gài lựu đạn chết
dân là sự thường. Không ai bắt đền bồi hoặc kiểm thảo gì cả. Vì “đó là
họ chống càn, giặc rút họ quên không gỡ, dân có lỡ đạp chết thì thôi. “
Gài lựu đạn thời kỳ chống Mỹ
không có vui vẻ dễ ăn và dễ trở thành anh hùng như trước. Thời Pháp, lính ruồng
đi bộ, du kích có thể biết trước đường đi của chúng cả giờ đồng hồ. Du kích tha
hồ gài và ngụy trang rồi lui vào bụi lùm xa xa ngồi chờ kết quả . Còn bây giờ
lính chụp dù không đi đường lộ, mà nhảy cóc hoặc có trực thăng vừa bắn vừa dẫn
đường. Cho nên mấy ông nội, cứ phóng chừng mà gài cho thật nhanh rồi phóng. Có
khi ông nội gài, ông ngoại đạp. Có khi gài rồi không nhớ chỗ, vì lúc gài bị
trực thăng bắn rát nên không làm dấu kịp, lúc rút, trở ra tìm không thấy loay
hoay một chập lại dẫm lên lựu đạn của chính mình. Hoặc có nhiều ông nội làm
biếng, gài không nổ rồi bỏ luôn, kẻ nào đạp ráng chịu. Ai mà truy cho ra tác
giả. Hoặc tệ hơn nữa, các ông vô tình gài trên đường thoát thân của dân cán.
Thằng Hồng chết vì mảnh lựu đạn
cũ lại quết đầy bùn non sình thối, cũng chưa bi thảm bằng cái chết của ông Năm
Hữu, Khu ủy Viên khu 8. Ông là thầy giáo dạy trường Mõ Cày. Khi kháng chiến
bùng nổ, ông bỏ trường đi theo tiếng gọi non sông làm trưởng ban tuyên truyền
tỉnh, sau thầy Ngọc, trong ủy Ban Kháng Chiến Hành Chánh tỉnh của ông Mười Huệ.
Ra Bắc ông được cho làm phó một
thời gian rồi gởi về Nam. Đạo đức của ông cao lắm nên ông được mệnh danh là Cụ
Hồ Con. Ông dư sức vào Khu Ủy nhưng tụi đàn em trong này giành hết ghế, ông
không có chỗ. Trung ương phải điện vào chỉ định ông làm Phó Bí Thư Khu Ủy thì
đàn em mới chịu nhín cái rìa ghế cho Cụ Hồ Con ngồi tạm.
Ông là trí thức nên muốn đi
đường thành đến các tỉnh ông phải phơi nắng cho tiệp với nước da lãnh đạo của
bần cố hỉ để không bị nghi ngờ. Ông về Bến Tre gặp tôi hai ba lần. Vì không có
quan hệ cũ cũng không có quan hệ trong công tác hiện tại, chỉ dính tí bà con
nên gặp nhau chỉ chào hỏi rồi mạnh ai nấy lủi. Kỳ đó ở Tân Hào, ông gặp tôi,
bảo:
- Cháu cẩn thận, tụi du kích ở
đây gài lựu đạn ẩu lắm!
Chẳng ngờ vài hôm sau ông lại
chết vì một trái lựu đạn gài. Không phải của du kích mà chính của tên cận vệ
ông. Nghe pháo nổ dọn bãi ở Bào Sen, anh chàng cận vệ vác lựu đạn gài chặn
đường vào căn cứ mà không cho ông biết. Ông ra ngoài chỗ trống ngước nhìn con
đầm già bắn điểm. Ông né qua né lại thế nào mà lại giẫm trên quả lựu đạn… Cái
chết của ông Cụ Hồ Con làm rúng động cả một vùng. Tỉnh Ủy đã giấu nhẹm tin này.
Tội nghiệp thay vợ con ở trong thị xã mà không cho hay . Cứ mỗi lần ra thăm, họ
được đám Tỉnh Ủy cho biết ông về khu hoặc lên R hội nghị, nào ngờ ông đi công
tác vô thời hạn ở âm ty.
Ở Củ Chi năm 1967, chẳng khác
Nam Bộ kháng chiến 1946: cưa tay chân thương binh bằng cưa thợ mộc không có tê,
mê . Đó là bác sĩ Tám Lê , anh hùng quân đội Việt Cộng.
Ở Bến Tre bác sĩ mổ chiến
thương trên xuồng, nước lớn lắc lư và bác sĩ đứng dưới nước ngập đến ngực. Đó
là bác sĩ Bích. Trên đầu thì đầm già quần tìm điểm. Tôi trông thấy tận mắt. Ai
có thể bịa ra nổi những chuyện như vậy?
Tư Mô cứ than vắn thở dài với
tôi:
- Nếu bắt tôi phải chết, cho
tôi xin cá i chết bình thường, đừng quá bi thảm.
Bình thường sao được ? Cuộc
sống này đã là một sự mọi rợ rồi. Lúc này quân Bình Định đã ổn định hoàn toàn
Cù Lao Minh. Đi tới đâu như chẻ tre tới đó. Dân cán chính cấp tỉnh chạy thoát
thân qua bên Cù Lao Bảo, chỉ còn đám huyện xã ở lại mặc tình chui hang.
Rồi cuối cùng Cù Lao Bảo cũng
không yên. Những cuộc chụp liên tiếp của Sư Đoàn 7, Sư Đoàn 9, Thủy Quân Lục
Chiến có phù hiệu con ó đậu trên trái đất, Biệt Động Quân, Trâu Điên sau Tết
Mậu Thân đều thừa thắng xông lên. Không ngày nào là tôi và Tư Mô không chạy.
Chạy ngày không giờ, tuần không thứ, ban ngày không đủ tranh thủ ban đêm. Còn
nói gì đến việc sáng tác. Tư Mô cười buồn:
- Mình càng chạy xa chiến thắng
càng gần!
Một hôm nằm ở quán Bà Mười, vặn
đài Sài Gòn nghe tin lén, bỗng Tư Mô la lên:
- Thằng Dương Văn Đức ca-ma-lố của
tôi!
- Sao?
- Nó làm tới Trung Tướng.
- Anh quen nó hồi nào?
- Nó học Le Myre de
Vilers với tôi. Mà bây giờ nó vậy, mình vầy. Chú coi đó.
- Thì tại nó đi bên kia mình đi
bên nầy, nên nó vậy mình vầy, còn than nôi gì bác nó ! Ai biểu già rồi còn ham
vui chi mà bây giờ than thở!
Từ đó tôi và Tư Mô dính với
nhau sinh tử bất ly, khi thì ở Thạnh Phú Đông, lúc lên Phước Long, lúc lại sụt
về Tân Hào, tùy tình hình, nhưng nói chung không ngày nào nghỉ chân trên con
đường chạy đua với trực thăng, lủi trốn chẳng khác gì hồi bác bí mật đi tìm
hình của nước.
Đoán chừng vợ sắp sanh, hằng
ngày tôi từ Tân Hào lội ra Thạnh Phú Đông để đón đò máy hỏi tin tức. Tôi đã dặn
các em con cậu Tám tôi ở Bến Tre, hễ vợ tôi sanh thì đến đò máy Sơn Đốc nhắn
cho tôi hay liền.
Một bữa tôi vào một ngôi nhà
thật tồi tàn, gặp một bà già hom hem. Trong lúc ngồi đợi đò, qua câu chuyện xã
giao, tôi được biết đó là bà vợ của một anh hùng trong thời kỳ chống Pháp: anh
Phan Văn Kích, tự Ba Kích, Chỉ Huy Phó, sau lên Chỉ Huy Trưởng bộ đội Đoàn Trần
Nghiệp, gốc là bộ đội của Hai Phải.
Nguyên hồi đó ở bên Cù Lao Bảo
có hai nhóm tự động võ trang, một là nhóm của anh Phan Văn Phải tự Hai Phải do
anh và hai người em ruột của anh là Ba Kích và Năm Hà gây dựng. Nhóm thứ hai là
nhóm của Đồng Văn Cống, tức Bảy Cống.
Anh Hai Phải đã anh dũng hi
sinh trong trận hạ đồn Cầu Mống tại làng tôi. Sau đó anh Ba Kích và anh Ba Lắm
lên chỉ huy thay cho anh Hai Phải. Anh Kích hi sinh trong một trận đánh đồn ở
Trà Vinh. Năm Hà tiếp tục chỉ huy thay hai anh.
Đó là những người hùng yêu nước
tuyệt vời, không đảng phái không cờ đỏ Mác Lê gì cả. Thế nên khi Năm Hà tập kết
ra Bắc thì bị coi như một con người tầm thường, công lao bị phủi sạch. Thói
thường Cộng Sản là như thế. Khi còn lao đao lận đận trốn chui trốn nhủi trong
chuồng heo thì khác. Nhưng khi đớp được mồi ngon thì bọn đầu xỏ quên hẳn nhờ ai
chúng được lên ngôi. Một vạn trường hợp như thế đã xảy ra cho cán bộ Nam Kỳ. Ba
anh em Hai Phải là một trường hợp. Một lần tôi đi từ Hà Nội xuống Hải Phòng,
tìm đến thăm chú Năm Hà thì thấy chú đang ở một cái chòi gần Cầu Rào. Chú đi
săn vịt trời bán lấy tiền sinh nhai. Bây giờ về Nam tôi gặp bà góa phụ Phan Văn
Kích, nghèo nàn và cô độc sống trong một ngôi chòi tranh. Bà có một cô con gái
tên là Huấn Ngọc đang làm biên đạo trong đoàn Văn Công Giải Phóng Tỉnh đang rã
ra đi cuốc đất trồng rau ở Tân Hào. Sau này tôi và Tư Mô có dịp chạy chung với
đoàn này xuống Thạnh Phong.
Việc gặp bà Phan Văn Kích làm
tôi nhớ lại nhiều vị công thần Nam Bộ bị bạc đãi, hất hủi một cách lạ lùng mà
tôi đã kể ra không biết bao nhiêu lần, bất cứ ở đâu để cảnh tỉnh những ông bà
nhắm mắt đốt nhang thờ Bác Đảng suốt gần nửa thế kỷ nay. Viết đến đây tôi nhớ
thêm một trường hợp khác :Khu Phó Nguyễn Hùng Phước. Thời kỳ đầu
kháng chiến, ở Miền Tây Nam Bộ giặc Pháp khiếp đảm những cuộc đột nhập hạ đồn
xuất quỉ nhập thần của nhóm xung kích cảm tử Nguyễn Hùng Phước, mà người dân
Miền Tây tặng cho danh hiệu Con Hùm Xám Miền Tây. Em ruột của Nguyễn Hùng Phước
là Nguyễn Hùng Minh là một thợ máy từng làm giám đốc một công binh xưởng đã đem
mẹ già 70 tuổi ra Bắc những mong nhìn dung nhan bác Hồ. Nguyễn Hùng Minh không
có nhà ở phải đem mẹ ẩn náu dưới gầm cầu Long Biên trong một túp lều làm
bằng cạc-tông.
No comments:
Post a Comment