XUÂN THU ấn hành lần thứ nhất
tại Hoa Kỳ
tháng một , một chín chín sáu.
Nhà xuất bản và tác giả giữ bản
quyền
Cấm trích dịch và in lại dưới
mọi hình thức.
ISBN: 1-56295-009-1
Một quê hương tan nát, một
cuồng vọng tiêu ma. Đồng khởi thực sự là cái gì ? Có giải phóng ba phần tư đất
đai và bốn phần năm dân chúng không? Súng ngựa trời có tác dụng như đài Hà Nội
rêu rao không? Đạo Quân Đầu Tóc có được mấy người và do ai chỉ huy ? Nữ tướng
Ba Định làm gì trong kháng chiến chống Pháp, và trong chiến tranh chống Mỹ? Tại
sao Nguyễn Chí Thanh bốc mụ ta lên đặt trên đầu bọn trí thức hùa và đám cán ngố
Bắc Kỳ? Trần Văn Trà bị rượt chạy suýt chết vì mưu toan sát nhập bộ đội Hai
Phải vào các đơn vị dưới quyền chỉ huy của y.
Ông Đốc Huệ, Bác sĩ Trần Hữu
Nghiệp, học giả Ca văn Thỉnh và các vị trí thức khác được Cộng Sản xử dụng ra
sao ?
Vì quyển IV Đến Mà Không Đến
hơi dầy nên tác giả sẽ đưa các vấn đề sau đây vào quyển Đồng Bằng Gai Góc:
Cái chết của Tư Trang, Thái
Trần Trọng Nghĩa, Quách Vũ, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Chí Thanh và các vấn đề
khác chưa nêu lên trong quyển IV, như Lưu Hữu Phước làm con bài hiếu hĩ, hai
thứ Trưởng Bộ Văn Hóa của Chánh Phủ ma nuôi gà giỏi cỡ nào và bị bọn Giải Phóng
khinh miệt ra sao? Tác giả cãi lộn với cấp chỉ huy và viết thơ cho Trần Bạch
Đằng trước khi hồi chánh. Khi tác giả hồi chánh về Sài gòn được Chánh phủ, đồng
nghiệp và bạn bè cũ đón tiếp niềm nỡ ra sao.
- 1 -
Khi tôi về đến nhà gặp ngoại
tôi thì tôi mới thấy bộ mặt thật của đảng, hi sinh dân Nam Kỳ đến người cuối
cùng để thống trị họ. Riêng tôi, tôi cảm thấy mình ngu. Cái ngu của một thằng
học trò ba chớp ba nháng đang đi học lại bỏ trường để nhào theo Việt Minh
hát Tiến Quân Ca. Nhưng không phải một mình tôi mà toàn dân Nam Kỳ
quốc. Bây giờ, 1993, thì tất cả nam phụ lão ấu xứ Nam Kỳ đều thấy rõ điều đó
rồi. Đã muộn! Dọc đường Trường Sơn và khi về R, tôi thường mở đài Sàigòn. Thỉnh
thoảng nghe tên những thằng bạn học. Chúng đang làm Tổng Giám Đốc, Giám Đốc, Kỹ
Sư, có thằng làm tướng. Mẹ kiếp, còn mình đi theo Việt Minh hai mươi năm chỉ
được cái danh hiệu tên ăn trộm, chui luồn ngõ hẹp.
Tôi nhìn ngoại tôi mà hết biết
nói năng gì. Ngoại đứng cho vịt ăn ở bên mái chòi lụp sụp chỉ xô một cái là đổ
ngang. Ngoại nhìn tôi. Ngoại nhìn ông cán lạ mặt mang súng ngắn một giây rồi
hỏi:
- Cậu là ai?
- Dạ, cháu là…
Tôi bật lên tiếng khóc và chạy
tới ôm lấy ngoại, không nói nên lời. Ngoại tôi vẫn ngạc nhiên không hiểu.
- Con là thằng Triết nè ngoại ?
- Ủa, con đó hả Triết?
Ngoại tôi cũng khóc theo và
buông xụi vùa lúa xuống đất Tôi đi thẳng vào chòi. Trời đất ! Sao chiếc bàn thờ
bằng gỗ trắc lại đặt ở trong chòi vịt. Chiếc bàn thờ chạm trổ. Thuở nhỏ tôi vói
tay nhón gót mới lấy được bánh trái cúng trên đó bây giờ sao lại dời xuống đây?
Còn nhà cửa đâu?
Ngoại tôi chậm chạp đi vào mắt
cứ nhìn tôi trân trân như chưa tin tôi đã về tới nhà. Ngoại quệt mắt:
- Nếu ngoại biết con ở đâu thì
ngoại đã đi tìm rồi. Hai chục năm nay ngoại có biết con ở đâu?
Chia ly, nước mắt. Sum họp,
cũng nước mắt. Cả hai dòng nước mắt đều đắng cay, hờn tủi. Ngôi nhà ngói xưa
năm căn rộng và một ngôi nhà dài dính liền hình chữ Đinh đủ sức chứa hai trăm
người đã biến mất. Ngày xưa khi cái gọi là Cách Mạng Tháng Tám vừa nổi lên, đây
là nơi đóng quân, đóng cơ quan liên tục. Lúa trong bồ xúc ra tha hồ ăn, nước
mưa tha hồ uống, trái cây ngoài vườn tha hồ hái. Trần Văn Trà, Đồng Văn Cống
nào có lạ gì ngôi nhà này.
Tất cả, bây giờ chỉ còn lại cái
chòi vịt, một chiếc bàn thờ ba chân và một mình ngoại. Tôi nhìn lên thấy hình
cậu tôi, người cậu thứ Tám tôi yêu quí nhất, chỉ lớn hơn tôi năm, sáu tuổi, tôi
coi như một người bạn thuở ấu thơ.
- Cậu Tám sao vậy ngoại?
Như một bọc nước mắt bị gai
châm, ngoại òa lên khóc. Tôi nghe trong tiếng khóc của ngoại hàm chứa một sự u
uất khác thường, nhưng chưa đoán được nguyên do. Có lẽ ngoại không muốn để cho
đứa cháu đi biền biệt mấy chục năm nay mới trở về buồn nên ngoại lại quệt nước
mắt, rồi đi nấu cơm. Tôi trút ba lô xuống giường, lột súng máng trên đầu cột
Tôi ngó quanh nhà, ngó đến đâu kinh hoàng tới đó. Tôi không ngờ quê hương tan
nát và nhà cửa của ngoại tôi trở thành cái chòi như thế này, một cái chòi cất
trên bờ chuối mà hai hàng cột bìa cắm dưới mương vì mặt bờ không đủ rộng. Cái
chòi có vách lá sơ sài te tua bao bọc chung quanh còn bên trong thì không có
vách ngăn. Phía trước là chiếc bàn thờ, dựa lưng vào bàn thờ là giường ngủ
chung quanh là thùng, hũ, nia, sàng, đồ rách, chai lọ lớp bể lớp còn nguyên như
chiếc thúng tản cư thời chạy Tây, hai mươi năm trước. Trời ơi ! Thời đó Tây nó
không đốt nhà ngoại để bây giờ bọn cán bộ chi ủy tổ trưởng đảng, du kích, rút
rỉa ăn hết, từ cây cột, chiếc đòn tay, cục gạch, tấm ngói, không chừa một thứ
gì còn lại có thể chứng minh rằng nơi đây từng là một ngôi nhà ngói xưa.
Ngoại tôi đi ra bàn thờ rút một
cây nhang và bảo tôi:
- Đốt nhang trên bàn thờ đi
con!
Tôi đang lớ ngớ không biết làm
gì, thì câu nói của ngoại làm tôi tỉnh lại. Mấy chục năm nay, tôi bất biết nhà
cửa, ông bà cha mẹ. Bất biết cúng quải là gì. Cách mạng làm cho người ta quên nguồn
cội, bắt đầu từ những chuyện tưởng-như-nhỏ này, thực tình là không nhỏ. Có quên
ông bà thì mới thờ phượng được Mác Lê Mao. Có quên cha mẹ thì mới gào “Hồ
Chí Minh muôn năm” được. Rồi từ đó mới quay lại đấu tố cha mẹ ông bà.
Tôi cặm cây nhang trên bàn thờ
mà không biết van vái những gì. Ngoại bảo:
- Vái vong hồn cậu con về phò
hộ con.
Tôi hỏi ngoại:
- Cậu Bảy đâu ngoại?
- Cậu Bảy con ở trên Sài Gòn.
- Dì Năm đâu ngoại?
- Dì Năm đi ở đợ cho người ta
cũng ở trên Sài Gòn.
Tôi không hỏi dì Tư tôi. Vì tôi
biết dì đang ở đâu. Trên đường về từ Phước Hiệp tới đây, tôi đã nghe danh dượng
Tư. Ông là Cai Tổng. Chợ làng tôi đã trở thành thị trấn. Quận Mỏ Cày chia thành
hai quận. Trên có Quận Trưởng, dưới có Cai Tổng. Tôi không dám nói tới những
tên tuổi thân yêu vì sợ đụng tới cái lập trường của mình. Cách mạng là như thế
đó . Cách mạng quái gỡ như thế đó . Không rõ ai bày đặt ra mà dân ta phải theo
như thế này. Giá đừng có cái tháng Tám trong cuốn lịch thì dân ta đỡ hơn nhiều.
Tôi hỏi ngoại:
- Ngoại ở nhà có một mình vầy
sao ngoại. Rồi có máy bay hoặc cà nông ngoại làm sao?
Ngoại chỉ cái hầm ở sau chòi.
- Chun vô đó.
Cách Mạng đã biến nhân dân
thành những con chuột ở hang. Suốt từ Vàm Cỏ Đông về đến đây, tôi đến đâu cũng
dớn dác tìm hầm. Khi thấy được cái hầm rồi mới yên tâm mắc võng nghỉ hoặc làm
việc gì khác.
Ngoại nói:
- Ngoại mướn người ta làm hết
năm giạ lúa..
Nghe nói tới tiếng “lúa” tôi
nhớ tới lúa ruộng, nhưng cũng không dám hỏi. Vì lại sợ mất lập trường.
Ở ngoài Bắc, tôi từng nghe các
ông lớn khoe rằng sau Đồng Khởi giai cấp địa chủ đã đầu hàng nhân dân
vô điều kiện. Nhiều nơi địa chủ không nhận lúa ruộng hoặc chỉ lấy lúa ruộng
tượng trưng một lon sữa bò. Và: Địa chủ trong Nam tiến bộ hơn địa
chủ ngoài Bắc. Không cần học tập, không đợi đưa ra đấu trường mà đã giác ngộ
Cách Mạng. Trong lúc Ban Chấp Hành Trung ương Đảng thì lại trở thành địa chủ
khoác áo bần cố nông, mới đáng nực cười.
Ngoại tôi bảo:
- Để ngoại kêu em Sơn của con
vô cho má con hay.
- Em Sơn nào ngoại?
- Con gái của dì Năm con.
Bỗng một cô bé chừng mười một
mười hai tuổi bế em đi vô chòi. Ngoại bảo:
- Con đi đằng xóm coi chừng có
máy bay, cà nông thụt chạy về không kịp.
Cô bé hỏi.
- Ai vậy ngoại?
Ngoại bảo:
- Anh Hai mày đó.
- Con đâu có anh Hai như vầy.
Ngoại giải thích cho cô bé.
- Con của dì Hai mày. Anh Hai
con đi Cách Mạng hồi con chưa có. Đi lại mừng anh Hai đi con.
Cô bé đến cúi đầu. Ngoại bảo:
- Con đi lên nhà chị Sơn kêu nó
đi vô Cầu Mống cho dì Hai con hay.
- Hay gì ngoại?
Ngoại bảo cô bé đưa em cho tôi.
Tôi bồng bé gái ba tuổi mà rung động cả tim gan: mình đi xa nhà quá lâu. Ngoại
giải thích tiếp:
- Em Sơn, con của dì Năm con,
đẻ hồi 45. Khi con đi lên tỉnh với cậu Bảy con thì nó chưa dứt sữa. Bây giờ con
của nó đã lớn chừng đó. Con hôn cậu Hai đi con.
Đứa bé biết máu mủ , hôn tôi và
ôm cổ tôi. Tôi không ngờ tôi được một đứa cháu xinh xắn ngộ nghĩnh như vậy. Bao
nhiêu gian lao chết chóc vượt Trường Sơn băng ĐồngTháp Mười tưởng chừng như tan
biến trong phút chốc. Tôi hôn hít nựng nịu liên hồi. Bấy lâu nay chỉ hôn khính
con cháu người ta.
Chập sau mẹ nó tới, một cô gái
xinh đẹp, nước da trắng như bông bưởi, giống hệt dì Năm tôi, bước vô chòi, kêu:
- Anh Hai !
Ngoại tôi trêu:
- Ai là anh Hai của mày, coi kỹ
lại coi !
Nó bỗng òa lên khóc. Ngoại tôi
nói:
- Cha nó hi sinh đâu ở dưới
miền Tây trước đình chiến. Dì con đi tìm mà không ra tông tích.
Gia đình ngoại tôi đang sống
trong thảm cảnh, ly tán hoàn toàn. Không còn gì hết. Trên bảy mươi tuổi, sống
trên hai mươi năm trong vùng Việt Minh kiểm soát, nay thành một bà cụ trơ trọi
cô đơn và nghèo nàn tột bực . Dượng Năm tôi là một nhà Cách Mạng bị tù Côn Đảo.
Dì Năm tôi là cán bộ Phụ Nữ tỉnh, đã đào tạo nhiều lớp cán bộ Phụ Nữ Cứu Quốc
dưới thời bà Ba Định, cậu Bảy tôi là Trưởng Ban Huấn Luyện Thanh Niên Cứu Quốc
tỉnh, có bằngBrevet Supérieur, từng được chọn đi học Đông Âu năm 1947
nhưng cậu“không đi” với lý do ngoại tôi già yếu. Ruộng đất bị Cách
Mạng tịch thu, vẫn vui lòng. Nhà cửa được Cách Mạng ở dùm. Vẫn cứ vui lòng.
Ngoại tôi âm thầm chịu đựng, một tiếng bất mãn cũng không thốt ra.
Thế mà cậu Tám tôi bị chúng
giết trong Đồng Khởi. Có gì đâu Chúng mời cậu đi học tập chánh sách. Cậu không
đi Cậu bảo:
- Tụi chăn trâu chăn bò dạy ai
mà học?
Chỉ có thế thôi. Nửa đêm chúng
đến “mời” và cậu không về nữa. Bọn tá điền và lũ chăn trâu dùng búa đập đầu cậu
Nhưng còn tàn nhẫn hơn, chúng không cho ngoại tôi xin xác.
Nghe tôi về, có mang “Colt”,
chúng nó sợ lắm. Một tên tá điền cũ của ngoại tôi đến ngay tối hôm đó năn nỉ
tôi. Hắn nói:
- Cậu có đòi thì tôi xin đong
đủ số lúa ruộng.
Tôi bảo:
- Tôi không cần.
Vài hôm sau tên Trưởng Ty Công
An, vốn là bạn học cũ cửa tôi ở trường Quận, cho người mang thơ đến trao tận
tay tôi. Xem thơ xong, tôi mới tá hỏa tam tinh. Chẳng những Cách Mạng giết cậu
tôi, mà chúng còn giết cả cô tôi nữa.
Cô bị mấy thằng tổ trưởng, chi
ủy đảng ve vãn, cô mắng chúng là đồ chăn trâu. Chỉ có thế. Chúng giết xong cũng
không cho nội tôi xin xác cũng không nói là tội gì. Bức thư của ông bạn vàng
Trưởng Ty Công An cố ý giải thích cho tôi về trường hợp cậu và cô tôi, và xin
lỗi (!) tôi. Chuyện đã như vậy rồi, còn nói gì được nữa. Cho nên tôi đành làm
thinh. Nếu nổi giận chúng sẽ giết tới gia đình tôi và cả tôi nữa rồi đổ thừa
cho biệt kích thì ai làm gì được, khi bọn côn đồ đã có dao găm và lựu đạn trong
tay.
Trong lúc em Sơn đi vô Hương
Mỹ, giáp ranh với làng Minh Đức, để cho má tôi hay thì ngoại tôi dọn cơm cho
tôi ăn. Đáng lẽ bữa cơm sum họp đầu tiên là bữa cơm ngon đầy ý nghĩa, nhưng tôi
nuốt không vô. Tôi lại hỏi ngoại:
- Cậu Bảy, dì Năm làm gì ở trên
Sài Gòn, ngoại?
- Dì Năm con thì ở đợ cho người
ta.
Tôi kêu lên một tiếng như chim
bị đạn. Đôi đũa trong tay tôi rơi xuống bàn. Ngoại tiếp:
- Con nhớ con Tám hồi trước bán
bánh bèo ở chợ không? Ý mà không phải con Tám. Má nó mới bán bánh bèo còn nó
hồi đó còn nhỏ. Tụi đó bỏ nhà lên Sài Gòn lâu rồi. Lên Sài Gòn nó vẫn bán bánh
bèo mà làm giàu. Kỳ vừa rồi nó về thăm quê, nó có đến đây. Nó thấy dì Năm con
sống cơ khổ quá, nó mới nhờ lên coi nhà dùm cho vợ chồng nó ra Vũng Tàu nghỉ
mát hay tìm mối làm ăn gì đó.
Tôi nói để chữa thẹn:
- Vậy đâu phải ở đợ, ngoại.
- Ừ, không phải ở đợ thì thôi.
- Chừng nào ở hoài thì mới gọi
là ở đợ ngoại à ! Chớ còn coi nhà giùm người quen…
Ngoại tôi cười:
- Vậy lâu nay ngoại tưởng là ở
đợ đó con à !
Tôi đau đớn không tả nổi từng
câu. Tôi hỏi tiếp về cậu Bảy tôi, thì ngoại nói:
- Cậu Bảy con đi làm công gì
cho người ta ở trển, ngoại không rõ, lâu lâu mới về một lần. Hồi Hòa Bình nó
không ở nhà được vì lọ mặt kháng chiến, xóm làng đều biết, không trốn
được nên phải đi xa. Chẳng ngờ lên trên đó thì bị đồng chí của nó chỉ chỗ cho
mật thám bắt.
Tôi thấy bị chạm tự ái vì hai
tiếng “đồng chí”.
- Đồng chí nào vậy ngoại?
Ngoại nói:
- Thì cũng mấy ông đi chung với
nó trong chín năm. Lúc Hòa Bình thằng kia bị bắt bỏ tù, khi ra tù thì làm tai
mắt chỉ chọc cho mật thám. Ngoại với dì Năm con khóc hết nước mắt con ơi! Dì
Năm con đi tìm qua không biết bao nhiêu nhà tù. Nhưng cũng khá, người ta bỏ tù
có sáu tháng rồi thả ra, cho phép đi làm ăn với điều kiện không được làm Cách
Mạng nữa. Cậu Bảy con định cạo đầu lập Am tu niệm, nhưng dì Năm con bảo: “Em
là trai, còn mẹ già phụng dưỡng.” Do đó nó đi Sài Gòn làm ăn nguôi
ngoai.
- Còn mợ Bảy?
- Cũng ở trển lo nuôi mấy đứa
con đi học. Cậu con có được hai trai ba gái. Thằng lớn sắp đỗ tú tài. Con em nó
cũng học giỏi lắm. Vào dịp bãi trường chúng nó thường về đây chơi.
—>Chương 2
- 2 -
Tôi chờ gặp lại má tôi. Tôi
biết má tôi vẫn ở ngoài vườn tại nhà cũ của tôi. Nếu bỏ đi bọn cướp chi ủy và
tổ trưởng đảng ăn hết. Còn ba tôi thì vô chợ ở, dạy cho một trường trung học
dân lập. Ông không ưa Việt Minh từ đầu 45 . Ông chơi với bọn Đồng Văn Cống,
Trần Văn Trà, tiếp đãi bọn này như thượng khách, cơm gà cá gỏi đều đều, nhưng
không đi theo Cách Mạng. Tỉnh, quận mời ông, bạn bè đi kháng chiến cũng rủ ông,
nhưng ông từ chối khéo:
- Tôi không ngủ ở đâu được
ngoài cái giường của tôi !
Đó là sự thực. Từ khi tôi lớn
lên ông không đi làm. Có đi tiệc tùng trong làng thì dù khuya mấy cũng về nhà ,
không ngủ ở nhà lạ. Nhưng bây giờ ông phải bỏ nhà vô quận lỵ Cầu Mống ở, xa má
tôi, để nuôi nội tôi đang được người cô thứ Chín của tôi bảo bọc.
Năm 45 khi tôi thoát ly gia
đình, ông buồn lắm, nhưng không cản, vì biết tôi yêu nước mà đi chứ chẳng phải
chơi bời lêu lổng gì. Khi đình chiến, má tôi vào miền Tây để rước tôi về ông
nhắn:
- Hòa bình rồi, về nhà, không
đi đâu nữa !
Nhưng tôi hăng quá, chí tang
bồng hồ thỉ, đi hai năm cho biết đó biết đây, coi cái Hồ Gươm, cái Tháp Rùa,
đường Cổ Ngư quê hương Xuân Tóc Đỏ ra sao. Hai năm hóa hai mươi năm. Bây giờ
quay về. Má tôi tóc đã hoa râm. Đứa em gái độc nhất không lấy chồng, ở vậy nuôi
mẹ . Còn tôi..“vợ còn chưa có, hỏi chi con!”
Chuyện “chữa cháy” đầu
tiên của má tôi là đi kiếm vợ cho tôi. Ở nhà má tôi đã đi “làm suôi” với
người ta vài ba chỗ . Hai năm không thấy gì, người con gái này đi lấy chồng,
lại hai năm nữa trôi qua vẫn không thấy gì, người con gái khác đi Sài Gòn. Má
tôi không còn tin ở con số hai đó, nhưng vẫn bền tâm đi “làm suôi” thêm
vài chỗ nữa. Vẫn biền biệt tin đứa con trai!
Bây giờ gặp được đây, mẫu tử
trùng phùng nhưng không còn ai để làm suôi nữa ! Má và ngoại tôi ngồi bàn, tìm
kiếm, nhưng không còn ai. Người ta đã bỏ cái xứ Đồng Khởi gai góc này mà đi tìm
chỗ dung thân. Ở đâu cũng sống dễ dàng, làm ăn cũng khá hơn ở cái quê hương
này: Vũng Tàu, Tây Ninh, Sài Gòn. Đâu đâu cũng là đất lành đất tốt. Cho nên
khắp một vùng năm bảy xã là phạm vi giao thiệp của gia đình, và nội ngoại tôi
mà chẳng có một mống “nữ nhi” nào khả dĩ sánh đôi cùng ông cán K54 Mùa Thu
không thuộc thành phần bần cố này.
Bỗng một tia hy vọng, có một cô
thợ may con nhà khá giả bên sông. Con sông đó là Rạch Tân Hương, một dòng nước
đỏ thắm phù sa như một ống huyết quản nhỏ chạy suốt bề ngang Cù Lao Minh nối
liền hai nhánh lớn Cửu Long là Hàm Lưông và Cổ Chiên.
Con rạch này là nơi ghi dấu
biết bao nhiêu kỷ niệm của thời thơ ấu tôi. Từ nhà tôi ra dây, tôi thường được
đưa đi bằng xuồng bơi. Tôi được dịp thọc tay qua be xuồng dọc nước, được dịp đi
ngang qua chợ Tân Hương nhìn ngó những chiếc ghe chài to lớn lạ lùng. Được dịp
biết ngã ba Cầu Quán mà tôi thường nghe ngoại dọa là nơi có “ma da” rút người,
để cho tôi sợ mà không dám tắm sông. Bây giờ có thể con rạch đó trở thành thân
yêu hơn đối với tôi chăng?
Đây là một gia đình gốc Hương
Mỹ. Cô gái có chồng về đây, má tôi có nghe nói nhưng không quen. Do đó không
thể đường đột đến xem mắt con người ta. Giao trách nhiệm cho thằng em con chú
Sáu tôi hướng đạo. Cậu thanh niên này làm y tá xã. Nó không dám ở gần quận lỵ
Hương Mỹ nên tản cư ra công tác ở xã này.
Một buổi sáng, sau khi ăn cơm
sớm, hai anh em ngồi nói chuyện tình hình bên nội để chờ “ráo phèn” rồi
sẽ xuất hành. “Ráo phèn” có nghĩa là sau mười giờ sáng mà
không nghe đầm già “cảo đùng”, nhại theo tiếng rốc kết bắn, như
nhại tiếng “cắc bùm” của mút-cơ-tông thời Pháp, không thấy
trực thăng vần vũ, không nghe pháo bắn dọn bãi ở đâu thì coi như bữa đó chín mươi
phần trăm yên tĩnh, không có đổ quân chụp dù hoặc ruồng bố. Dân Mùa Thu mới về
chưa hiểu qui luật bị nạn luôn.
Thấy tình hình êm chúng tôi
khởi hành. Mười năm trên đất Bắc, tôi không“cấy su hào” vì tôi luôn
luôn tìm đường trốn về Nam, cấy rồi ai gặt? Ngoài ra, tôi rất khoẻ mạnh, như
con heo được bác đảng nuôi cho mập, sớm muộn gì cũng đút lò Trường Sơn. Do đó
tôi không ký tờ sống chung thân với ai cả, mà đợi ta về ta tắm ao ta.
Đường sá không còn nữa, con
rạch không có ghe xuồng đi lại, nên có những quãng lục bình kẹt bít làm nghẽn
cả cây số. Cầu ngang không ai bắc, có bắc thì cũng chỉ vài hôm là bị pháo hoặc
trực thăng bắn gục. Pháo người ta có bản đồ ghi tọa độ cố định, nên bắn đâu
trúng đó không phải pháo Việt Cộng bắn hoặc vào nhà đồng bào, tệ hơn, vào
trường học. Do đó mà chúng tôi chỉ có một cách là mặc quần tiều và cầm quần áo
lội xốc đứng qua sông. Tuy rằng chuyện đó hơi kỳ cục nhưng hãy còn đẹp gấp mấy
ở Trường Sơn, mấy bà mấy cô có kinh mà phải lội suối cả ngày.
Lên bờ lá hai anh em lấy khăn
rằn chị Ba Định lau chùi khô ráo không sót chỗ nào rồi mặc quần áo vào, lấy
lược cào sơ cái đầu xong rồi thong dong thả bộ như các đấng đại quân tử đi dạo
miền quê.
Thằng em tôi, lúc tôi ra đi hãy
còn ẵm nách, bây giờ nó đã hỏi vợ xong cũng gần nhà cô thợ may này, nên nó rành
đường không sợ vướng lựu đạn.
- Quân ta không giết được quân
nó mà lại giết quân mình luôn. Tụi nó đi bẻ dừa trộm, bị chủ nhà bắt được, chủ
nhà không dám nói gì, nhưng chúng nó oán bèn đem gài trước cửa người ta.
- Chánh quyền ở đâu?
- Thì chánh quyền là tụi nó chớ
còn ai nữa anh !
Trước khi quẹo vào nhà đối
tượng, thằng em dặn nhỏ:
- Trong nhà này hễ anh thấy đứa
con gái ngồi may thì là “đó” nghen !
Tôi cười thầm, đi coi vợ kiểu
này thì chỉ có Việt Cộng !
Nó dặn tiếp.
- Mình làm bộ mua cam. Đâu có
ai biết là mình đến để làm gì. Anh thấy là anh chịu liền. Ở đây thanh niên vô
không nổi, nên mới còn đó. Nó có bà dì ở trên Sài Gòn muốn đem nó lên trển
nhưng má nó không cho.
Vừa quẹo vô mối đường một chút
thì gặp một anh nông dân đội nón lá rách te tua đi ra. Thằng em tôi hỏi.
- Có chị Tư ở nhà không anh Tư?
- Có!
- Tôi đem cho chị một ít thuốc
. Hôm qua chị nhắn mà tôi bận quá.
- Chú cứ vô nhà. Tôi đi ruộng
đắp bờ giữ nước. Tình hình găng quá, êm chút nào làm chút nấy.
Anh Tư vừa qua khỏi thằng em rỉ
tai tôi:
- Ông già con nhỏ đó anh Hai !
Tôi giật nẩy người. Như vậy tôi
kêu bằng ông nhạc sao vô ? Nhưng đã trót phải trét. Cứ liều mình xông tới thử
xem sao. Bố vợ Võ Nguyên Giáp đâu có lớn hơn chàng rể mấy tuổi. Ông Quyết ủy
Viên Trung ương lấy con gái nuôi. Bác Ba Duẩn cũng học một sách đó vẫn hiên
ngang như thường.
Vào đến nhà, thằng em tôi lên
tiếng trước:
- Chị Tư có nhà không? Khách
tới !
Một người đàn bà từ trong bếp
bước ra. Nó hỏi tiếp.
- Tôi cần một chục cam biếu bà
già vợ. Cam nhà còn không chị?
- Còn. Nhưng chưa chín lắm.
- Kệ nó, chị hái cho tôi một
chục có đầu.
- Đầu đuôi gì. Để lêu lêu trên
cây đó, ông đi qua bà đi lại nó biến hết hồi nào không hay, biếu cho chú còn có
nghĩa hơn.
Người đàn bà nước da trắng,
dáng quen quen không biết tôi đã gặp ở đâu. Bà ta cũng ngó tôi với cặp mắt ngờ
ngợ rồi vào bếp lấy rổ trở ra. Thằng em tôi hỏi:
- Cô thợ may có nhà không chị?
Trời đất! Nếu thành chuyện thì
nó phải kêu bà ta bằng bác mà bây giờ nó chỉ phong chức “chị” cho bà ta thôi.
- Nó đang may trong buồng.
- Ông cán bộ này muốn đặt may
cái vỏ radiô Sony.
Quả thật ngoại cho tôi tiền gởi
mua radiô trên Bến Tre. Sáng đò đi chiều đò về thì có ! Tôi bắt đầu sống theo
kiểu các ông cán địa phương: lưng mang ba lô, vai đeo xắc-cốt, vai đeo radiô
vừa đi vừa vặn nghe lén vọng cổ đài Sàigòn, đài BBC, VOA v.v…
- Ờ được, để tôi biểu nó may.
Chú mời ảnh uống nước dùm tôi, tôi đi hái cam cho. Thời buổi này cái gì cũng
phải vừa làm vừa chạy như vậy mà còn không kịp với trực thăng.
Bà chủ nhà nói xong rồi tất tả chạy
ra vườn. Chúng tôi vừa ngồi thì một bàn tay trắng, ngón mũi viết khoát nhẹ tấm
màn bằng vải bông, rồi một người con gái bước ra.
Gương mặt giống mẹ như đúc. Cô
nàng cúi đầu chào tôi rồi đứng ở bẹ cửa vui vẻ hỏi thằng em tôi:
- Anh y tá mới mua radiô hả?
- Không! của anh Hai tôi, ảnh ở
ngoài Bắc mới về.
Cô nàng hỏi thằng em tôi, mặc
dù nó nói là cái radiô của tôi.
- Anh muốn may kiểu nào?
- Y như cái cô may cho tôi hôm
trước.
- Anh đem vải tới hay vải của
tôi?
- Cô may bằng ni-lông dầu dùm
tôi đi. Công cán vải vóc tính chung tôi trả cho.
- Ít lắm cũng một tuần mới
xong.
- Bao lâu cũng được. Bao nhiêu
cũng được. May cho khéo làm nghĩa nghe cô !
Cô gái buông tấm cửa buồng như
để chấm dứt câu chuyện giá cả, nhưng bỗng cô lại tái xuất hiện.
- Chừng nào anh cho đám thanh
nữ chúng tôi uống rượu đó?
- Cũng gần rồi. Còn rắc rối một
chút.
- Rắc rối làm sao đó anh?
- Người anh ruột cô ta làm phi
công ở Sài Gòn chưa đồng ý vì tôi là dân giải phóng.
- Như vậy anh phải làm sao?
- Tôi chờ chừng nào ảnh cưới vợ
vùng giải phóng tôi sẽ xúi anh vợ ảnh không đồng ý lại trừ.
Cô gái cười, cặp môi và hàm
răng nở như hoa, rồi vừa nói vừa buông màn:
- Anh chờ tới cóc mọc râu.
Thằng em tôi quay sang tôi thầm
thì:
- Anh coi được chưa? Mấy điểm
Liên Xô nào?
Ở trong này cũng bày đặt cho
điểm theo Liên Xô . Năm điểm là cao nhất. Tôi đang moi óc tìm xem người đàn bà
kia là ai, từng gặp ở đâu, nên không chú ý đến câu hỏi của thằng em. Bỗng người
đàn bà trở vào với rổ cam trên tay.
- Cam này tôi định hái bán trên
Bến Tre đấy chú em.
Thằng em tôi cũng khá nhạy cảm,
đáp:
- Ở đây cũng có giá vậy chị Tư,
cần gì phải đi xa cho bầm dập!
Người đàn bà để rổ cam trên bàn
rồi hỏi tôi:
- Xin lỗi anh là người ở làng
này hay ở đâu đến?
Thằng em đáp.
- Dạ, ảnh đi tập kết mới về.
Tôi đáp.
- Tôi ở trong Cầu Mống!
- Anh là anh Triết phải không?
Bà ta nói trúng ngay tên gốc
của tôi. Tôi gật đầu đáp:
- Phải, còn chị chắc không phải
là người làng này?
- Dạ, tôi cũng ở trong Cầu Mống
có chồng về đây.
- Sao chị biết tôi? .
- Anh quên mau vậy?
- Tôi nhớ có gặp chị mà không
biết gặp ở đâu, nãy giờ tôi suy nghĩ hoài mà không nhớ ra.
Người đàn bà cười chúm chím.
- Gặp hằng ngày mà không nhớ.
Đâu anh thử tìm coi.
Người đàn bà quay sang thằng
em.
- Chú ngồi chơi tôi đi móc dừa
nạo uống nước.
Thằng em tôi đứng dậy bảo:
- Chị chỉ tôi móc cho. Nói xong
nó đi ra cửa sau.
Người đàn bà nói theo:
- Chú coi cây nào có dừa nạo
thì móc.
Chị ngồi trên ghế đối diện với
tôi. Hai người chỉ cách có cái mặt bàn tròn. Chị cười thân mật đặt tay lên
ngực:
- Nhuận nè, nhớ chưa?
Thấy tôi nhìn chị trân trân,
chị lại cười:
- Nhuận học thầy Ba, thầy Nhì
nhớ chưa? Anh ngồi bàn sau làm đổ mực trên áo của tôi, tôi khóc bắt đền đó.
Một ký vãng xa xôi bừng dậy
trong tôi. Ngôi trường làng hiện lên trong đầu, một gian nhà ngói ba căn, nền
đúc cao, lớp nhất ở giữa, lớp ba bên phải, lớp nhì bên trái. Tôi học lớp ba
chung với nàng. Lên lớp nhì rồi lớp nhất cũng còn là bạn học. . .
- Anh lên Mỹ Tho học còn tôi ở
nhà, cha mẹ bắt lấy chồng. Trên ba chục năm tôi đâu có gặp đứa bạn nào. Nay gặp
anh là người đầu tiên học chung trường hồi đó.
Tôi hỏi vài tên người bạn cũ,
chị nói một hơi rồi tiếp:
- Về làm dâu ở đây gần hai chục
năm rồi. Nhà cha mẹ ruột trong đó mà có khi vài năm mới về được một lần, còn từ
Đồng Khởi tới giờ biệt luôn. Bom đạn bời bời đâu có dám rời miệng hầm. Sao anh
ở ngoải có vui không?
- Vui chớ chị.
- Anh Hai của tôi cũng đi cán
bộ đâu trên quận trên tỉnh gì đó .
- Vậy hả chị?
- Ảnh vừa cưới một bà cán bộ
phụ nữ, hai ông bà dắt đi có cặp. Ba tôi la quá trời mà ổng đâu có nghe. Lỡ
cưới rồi làm sao được.
- Cán bộ thì cũng tốt thôi, chớ
có sao đâu chị.
- Ủa mà quên, ảnh học trên tôi
với anh hai lớp. Anh nhớ không?
- Bây giờ thì tôi nhớ rồi. Nhớ
ra tất cả rồi. Nhớ cả anh Trung nữa.
- Ảnh thứ hai, tôi thứ tư, còn
một đứa em gái thứ sáu ở trên Sài Gòn. Còn nhỏ ngộ lắm chớ không phải ma lem
như tôi đâu.
Chị cười thân mật.
- Bất ngờ tôi gặp anh đây thiệt
là lạ. Hổng chừng trời đất – Chị ngưng ngang – Hèn chi hôm qua có con chim
khách đậu trên cây dừa ở mé sông kêu hoài.
Tôi hỏi thăm những ông thầy cũ
chị nói:
- Thầy Ba thì bịnh già rồi
chết. Con của thầy là chị Huỳnh Thị Ngọc Anh học chung lớp với mình thì có
chồng ở đâu trong Đập, còn thầy Nhì bỏ nhà lên ở Bến Tre. Hai người con của
thầy là anh Tiến và anh Sĩ cũng lên đó.
- Chị có gặp thầy không?
- Tôi chỉ nghe nói thôi chớ làm
sao mà gặp được, thời buổi bây giờ không có ai dám đi thăm ai.
- Tại sao vậy chị?
- Anh không nhớ hồi đầu kháng
chiến, người ta bắn hụt thầy Nhì à? Làng mình vỡ lỡ ra vì chuyện đó.
- Ờ ờ tôi nhớ ra rồi. Nhưng tới
bây giờ tôi không hiểu tại sao người ta lại làm như vậy. Thầy có lỗi gì!
Thằng em tôi xách mấy cặp dừa
nạo vào. Chị Nhuận mời tôi uống:
- Anh ra Bắc lâu vậy, còn nhớ
chặt dừa ba dao hay vạt mặt nữa không? Tôi biếu anh chục cam đó. Tiền bạc gì.
Chị vừa nói vừa bảo thằng em
tôi.
- Chú lấy khăn túm cho gọn. Mà
quên nữa. Chú dắt anh Triết qua đây bằng cách nào?
- Dạ, lội sông.
- Trời đất! Thôi, cũng được. Kỳ
này chịu khó lội về. Kỳ sau có muốn qua thì hú một tiếng tôi biểu thằng nhỏ
phóng xuồng qua cho.
- Bên kia hú bên này đâu có
nghe chị Tư. Cây cối rậm ri như rừng !
Chị Tư ngập ngừng một chút rồi
nói:
- Tôi có thằng con trai, nó
muốn đi bộ đội. Tôi không cho. Vậy anh cho nó đi theo được không?
- Công việc của tôi khác với
người ta lắm chị Tư à. Nó theo tôi đâu có việc gì làm.
Thằng em tôi tiếp:
- Ảnh viết báo đó chị Tư.
- Ảnh viết báo thì dạy cho nó
viết với.
- Để tôi xem.
- Anh cứ đem nó theo đỡ tay đỡ
chân anh. Đừng ngại gì. Để nó theo bộ đội, tôi với ba nó lo lắm.
Tôi kiếu từ chị ra về. Đến mé
sông, thằng em tôi hỏi:
- Anh coi được không?
Tôi lắc đầu. Nó dậm chân:
- Con người ta như vậy mà anh
chê cái nỗi gì?
- Anh đâu có chê.
- Bộ anh có hứa với ai ngoài
Bắc hả?
- Có ai mà hứa !
- Gia đình này không thích giải
phóng mà cũng không theo quốc gia. Anh vô cái là họ ngã theo mình liền.
Tôi vẫn lắc. Thằng em cứ càu
nhàu:
- Không sớm thì muộn, dì Sáu nó
ở Sài Gòn sẽ về đem nó lên trển đó anh.
- Sao em biết?
- Em biết. Dì Sáu học nữ công ở
nhà mình một năm.
- Bao lâu rồi?
- Đâu cả chục năm trước. Dì nó
đẹp và khéo nữa.
- Nhưng mà… không được đâu!
- Tại sao vậy?
- Dân thành đâu có hợp với anh.
Hai anh em lại lội sông về .
Tôi không cho nó biết Nhuận là bạn học cũ của tôi. Cho nên nó cứ bứt rứt trách
móc tôi hoài, nhưng tôi cứ lảng ra mà không nêu lý do gì hết.
Việc quan trọng nhất của tôi về
đây là viết tiểu thuyết Đồng Khởi. Ở trên đã giao phó cho tôi cái
công việc đó trong một chỉ thị “bất thành văn” của R lẫn Trung
ương.Và tôi cũng đã nhận “sứ mạng” đó. Bây giờ về ngay đây,
làng Minh Đức, một trong những xã hàng đầu của Đồng Khởi và có cả một số đội
viên đội quân Đầu Tóc(*) nữa, tha hồ mà nhặt hái những
bó tài liệu quý.
(*) Bây giờ Việt Cộng đổi lại
là “Đạo
quân tóc dài” cho dễ nghe hơn.
Muốn viết được tiểu thuyết đó
để gởi ra Bắc, phải tốn cơm tốn gạo chớ không phải dễ . Hồi ở ngoài Bắc tôi có
đọc tập ký của Trần Hiếu Minh, tức NguyễnVăn Bỗng, ủy viên Ban Chấp Hành Hội
Nhà Văn Hà Nội viết về Bến Tre. Tôi nôn nao lắm, muốn về mau mau. Bây giờ về
đến rồi phải tính tới chuyện viết.
Nhưng trước nhất là phải lo cái
hầm bí mật để sống cái đã. Hồi ở trong trường “vác gạch” tướng
Nguyễn Văn Vịnh vô nói toàn chuyện phấn khởi để cho đám gà mờ chánh trị này
phấn khởi:
- Các đồng chí về trong đó thì
tình hình đã khá hơn nhiều rồi. Hiện giờ khu giải phóng rộng hơn thời kháng
chiến. Bộ đội hành quân toàn bằng đò máy.
Nghe mà mê rụng rún con nòng
nọc. Sống chết cũng bò về. Có nhiều cụ trên năm mươi cũng nằng nặc đòi về cho
được. Rồi chết dọc đường như rạ.
Bây giờ tôi về đến, thì vùng
giải phóng có bằng chiếc đệm của tá điền đồng Nọc Nạn, vừa bé lại vừa rách
không xoay trở được. Bất cứ chỗ nào pháo cũng bắn tới. Đó là chưa nói đến trực
thăng. Chỉ trong vòng mười lăm phút là tới nơi, một thời gian đủ cho giải phóng
rút xuống hầm bí mật. Cho nên cái hầm là điều sinh tử.
Thời kháng Pháp khoẻ như đi
dạo, mười năm chỉ bị ruồng vài lần. Tàu Tây còn cách năm mươi cây số đã chạy
rồi. Đâu có thấy thằng Tây mồm ngang miệng dọc ra sao. Bây giờ cứ mỗi sáng thức
dậy sớm ăn cơm rồi ngồi nghe ngóng động tịnh để bỏ vó hùm. Ở trên R tuy sợ B52
nhưng ngoài B52 không sợ gì khác. Còn xuống đây sợ đủ thứ cả B52. Loại máy bay
thả dưa hấu này đã bắt đầu xuất hiện ở Mỹ Tho, thì cái Quê Hương Đồng Khởi này
sức mấy mà nó tha cho.
Khi còn ở trên R tôi tưởng dễ
lắm. Bây giờ đụng vào thực tế rồi mới biết là khó. Làm sao tìm một cái nắp. Hai
trăm đồng một cái. Nhưng phải là tay thợ mộc mới đóng được chứ đâu phải như cái
nắp mái nắp soong.
Ở trong nhà ngoại tôi hơi gần
đồn bót, cả hai mặt tính từ đồn quận Cầu Mống ra, lính từ Giồng Luông lên bất
cứ lúc nào. Cho nên tôi phải lùi ra phía vàm Rạch Tân Hương mà đóng đô ở nhà bà
cụ của tôi, tức là cô ruột của ông nội tôi. Bà cụ không có con trai. Chỉ có ba
người con gái. Bà thứ Năm ở trên thành lại có con làm quận trưởng quốc gia, nên
không thể nhờ cậy gì được, trái lại tôi còn trốn lánh. Bà thứ Ba thì có nhà ở
gần nhà cụ. Bà Ba có người con gái tôi gọi bằng cô Hai đang làm chi ủy viên, và
người em, tôi gọi bằng bà Bảy đang làm đảng ủy viên. Bà Bảy tuy vai lớn nhưng
chỉ hơn tôi chừng năm sáu tuổi, có chồng tập kết làm giáo sư Đại Học có sang
Liên Xô tu nghiệp. Như vậy tôi dựa vào gia đình cụ tôi là đúng lập trường hoàn
toàn.
Thằng em tôi ở đây chăm sóc bà
cụ tôi thường xuyên. Bà cụ đã ngoài tám mươi nhưng rất khỏe mạnh. Bà cụ đi vườn
tét tàu dừa trồng rau nấu cơm, nấu nước may vá như thường. Ngôi nhà ngói xưa
của cụ cũng tan biến đi đâu mất chỉ để lại một dấu vết: đó là bộ ván gõ. Ngoài
ra không còn một tấm ngói. Hồi nhỏ tôi đã từng đến nhà này, điều làm tôi ngạc
nhiên nhất là hai cái “Thọ” để dành cho ông cụ bà cụ đường già. Bây giờ hai cái
Thọ đó đã nằm dưới mương, vì sợ bom bỏ cháy nhà . Cháy món gì cháy chứ còn hai
cái Thọ thì phải bảo vệ cho nguyên.
Tôi về đấy cả nhà đều mừng rỡ,
vì tôi là cháu ruột của dòng họ Bùi. Cụ thường tự ví mình là bà Địch Thiên Kim,
cô ruột của Địch Thanh vậy.
Tôi tìm mãi không ra một ông
thợ mộc thuê đóng nắp hầm. Cuối cùng thằng em tôi cho tôi một cái. Tôi hỏi ở
đâu nó có. Nó bảo của chi ủy làm rồi không xài. Mà nó cũng không dám xài. Hễ có
chuyện gì thì nó chạy cà còng như nai trên rừng chớ không dám chui hang.
Nó dắt tôi đi xem. Ở tận ngoài
lùm rậm ở sát mé sông. Nghe nói tới hầm bí mật trên báo hồi kháng chiến, mà tới
bây giờ mới thấy nó trên thực địa. Sau này khi lên Củ Chi tôi mới nếm mùi
cả Hầm Bí Mật lẫn Địa Đạo.
Thằng em moi móc một lúc mới
tìm được cái nắp và lôi bật nó lên. Tôi nhìn thấy hỡi ôi. Nước đầy tới mép
miệng hầm. Biết tôi không hài lòng, nó bảo:
- Coi vậy chớ mình cũng xuống
được lúc nước ròng. Còn nếu rủi nó chụp vào lúc nước lớn thì mình lặn xuống
sông đội lục bình.
Tôi thất vọng hoàn toàn về cái
vùng giải phóng bao gồm bốn phần năm miền Nam của Nguyễn Hữu Thọ. Mẹ kiếp thằng
Nam Kỳ này đạp cứt Trung ương rau muống hay bị Trung ương cho ăn bùa mê mà cũng
bày đặt nói láo bịp gà nhà.
—>Chương 3
- 3 -
Thực tế thì tôi không thể nào
đám xuống một cái hầm thuộc loại siêu như vậy, nhưng về mặt tâm lý thì tôi thấy
như đã có một cái bửu bối gì che chở cho mình, nên cũng yên tâm mà sưu tầm tài
liệu để viết về Đồng Khởi.
Tôi bỏ qua việc kiếm vợ để
lo “việc nước”, tức là sáng tác. Lúc bấy giờ ở Hà Nội, báo Văn Nghệ
lâu lâu mới nhận được bài của Anh Đức hay Giang Nam. Chúng nó nói toàn chuyện
lên mây gỡ vảy rồng, xuống biển xỏ mũi kình ngư. Nhưng khi tôi về đến R thì
thấy chúng nằm chèo queo rên hừ hừ. Thằng Đức thì còn đi được một chuyến xuống tới
Rạch Giá quơ được tài liệu mồm rồi phịa ra cái Hòn Đất, do nhà xuất
bản Văn Nghệ in. Tố Hữu bắt bác sĩ Trần Hữu Tước, chủ nhiệm khoa Tai, Mũi, Họng
Bệnh Viện Bạch Mai, dịch ra tiếng Pháp để bịp thế giới. Tôi có liếc sơ vài
trang thì thấy nó rất đúng lập trường chống Mỹ của đảng. Tôi không bao giờ đọc
hết một trang của anh bạn văn này vì tôi thấy nó viết bằng lập trường hơn là
cảm xúc.
Bây giờ đến phiên tôi phịa ra
một cái tiểu thuyết Đồng Khởi kiểu Hòn Đất.
Tôi bắt đầu tìm tài liệu ngay
trong gia đình bà cụ tôi, nơi cô Hai chi ủy và bà Bảy đảng ủy. Cô Hai bằng tuổi
tôi. Hồi đầu kháng chiến trong lúc cô đội nón rơm, mặc đồ tây, lưng đeo dao găm
hò hét thiếu nhi đi nhịp “một hai” và hát “Lên Đàng” thì
ở trong Cầu Mống tôi cũng làm như vậy. Sau hai chục năm gặp lại nhau, một người
làm chi ủy, một người tập kết mới về.
Còn bà Bảy tôi, thật tình tôi
không hiểu tại sao bà vô đảng và làm tới đảng ủy? Bà học chữ nho nơi ông cụ
tôi, từ nhỏ không đến trường, khuê môn bất xuất chuyên theo bốn chữ công,
dung, ngôn, hạnh, thêu thùa rất khéo nổi tiếng cả một vùng, mở lớp dạy học
trò tại gia. Một người con gái đọc chữ nho ron rót lại vô đảng. Ai dám giới
thiệu? Thế mà bà đã vô.
Một hôm nhân lúc cô Hai đi họp
về ghé qua. Cô tích cực thấy mà ngán. Cô có con nhỏ, cô bế lội mương lội xẻo đi
họp, đi “chỉ đạo công tác” hằng ngày, không mấy khi cô có mặt
ở nhà. Bà cụ tôi bảo:
- Nó làm kiểu đó, con nó lên ba
là nói chính trị nghe mà mệt cho coi.
Cô vào nhà vừa để bé lên võng,
tôi nói ngay:
- Cô cho cháu hỏi thăm vài vấn
đề địa phương chút cô Hai.
- Ừ hỏi thì hỏi đi. Cô nói cho
nghe mặc tình mà viết. .
- Ở ngoài Bắc cháu có nghe
chuyện đấu tranh của đạo quân đầu tóc của Tạ Thị Kiều.
Cô ngơ ngác:
- Tạ Thị Kiều nào?
- Dạ Tạ Thị Kiều anh hùng quân
đội.
- Hồi nào?
- Dạ trước khi cháu về Nam,
cháu có dự một hội nghị “anh hùng giải phóng” trong đó có cô
Kiều.
- Sao cô không biết? Quê cô ta
ở đâu?
- Ở An Thành, là xã có Mả ông
Hàm Văn gần Thom.
- Cô đi họp huyện ủy hoài sao
cô không biết? Nếu có người trong huyện đi ra Bắc thì phải thông qua huyện ủy
chớ. Cô ta chừng bao nhiêu tuổi? Hình dáng ra sao?
- Dạ cổ chừng hai mươi lăm,
nghe nói là chưa có chồng . Cổ rất sợ chó con. Hễ thấy chó con là chết ngất. Cổ
báo cáo chiến thuật đoạt bót của cổ bằng con khỉ.
- Chuyện gì lạ vậy, cô không
biết gì hết!
- Cổ báo cáo rằng cổ dùng con
khỉ nhử tụi lính ra khỏi lô-cốt và hò du kích xung phong lấy lô-cốt.
- Cô không biết chuyện này
trong huyện như vậy hết. Nếu có là cô phải biết.
Tôi bèn hỏi sang đạo quân đầu
tóc. Cô nói:
- Có thể ở đâu trên Phước Hiệp,
Định Thủy gì đó, chớ ở dưới này, Minh Đức, Hương Mỹ, Tân Trung, Ngãi Đăng, Cẩm
Sơn, An Định, Thành Thới, An Thới do cô phụ trách thì không có quân nào gọi là
quân đầu tóc.
Tôi mới vỡ lẽ ra cô là huyện ủy
viên.
- Vậy sao ở ngoài cháu nghe
chính tên các xã cô vừa kể là xuất phát điểm của quân đầu tóc. Báo kể chính
danh các xã mình cháu mừng muốn chết đây mà ! Quê hương mình anh dũng như vậy
cho nên cháu mới lặn lội về đây để“viết báo”.
Thấy cô ngồi lặng thinh có vẻ
bối rối, tôi hiểu ngay cái nghiệp báo của nhà mình nên tôi lảng sang vấn đề
khác.
- Còn ba cây súng ngựa trời như
thế nào, cô?
- Cái đó thì có. Hầm chông, lựu
đạn gài cũng có. Để cô viết cho miếng giấy giới thiệu cháu với mấy đồng chí có
trách nhiệm hồi đó. Nhưng cháu phải chịu khó móc họ ra chớ bây giờ họ cầu an
bảo mạng không chịu làm gì nữa hết. Có nhiều người muốn ra vùng meo đóng vai
lem nhem.
- Nghĩa là sao cô?
- Là ở trong này bom đạn ác
liệt quá, họ không chịu nổi nên men ra vùng trái độn, mặc áo trắng, gặp lính
như dân chợ. Thời buổi này mà mặc áo trắng là đầu hàng địch rồi cháu ạ. Cháu sẽ
thấy. Số này không ít đâu. Chi bộ họp đề ra nhiều biện pháp kỷ luật nhưng vẫn
không kết quả.
Buổi nói chuyện đầu tiên không
mấy gì mỹ mãn cho cả cô lẫn cháu. Cô bất mãn, còn cháu hoang mang.
Tôi hơi thối chí. Vì tôi biết
đây là cái ngón của Ban Tuyên Huấn Trung ương. Tố Hữu bẽm mép phi thường. Cả
ngàn văn nghệ sĩ dưới quyền chỉ huy của hắn, hắn xoay bề nào phải chịu bề nấy.
Trước đây, khi Hòa Bình vừa lập lại, bộ đội Nam Bộ tập kết ra Bắc, có mấy chiến
sĩ được chọn và trao tặng danh hiệu “Anh Hùng Quân Đội”. Tôi là nhà
văn Nam Bộ duy nhất được “danh dự” (!) mời ra Hà Nội để viết
về thành tích của Anh Hùng Sơn Ton người Miên lai thuộc bộ đội
địa phương Sóc Trăng. Điều tra xong, tôi báo cáo lên cấp trên rằng đây không
phải là một anh hùng. Nếu Sơn Ton là anh hùng quân đội thì bất cứ chiến sĩ nào
cũng có thể là anh hùng quân đội được cả. Trước khi chia tay tôi cổ hỏi Sơn Ton
tại sao như vậy? Sơn Ăn nói rằng “Ở trên Ban Thi Đua Trung Đoàn đem cả thành
tích của huyện Long Phú đắp vào cho tôi!”
Chuyện này tôi viết lên báo
Việt ngữ hải ngoại một vài lần rồi, nhưng quên cho anh ta đi “song
ca” với chiến sĩ gái Tạ Thị Kiều. Nay bỗng dưng nhớ lại.
Lúc ở ngoài Bắc tôi có
được “danh dự”, cũng danh dự, gặp nữ anh hùng Tạ Thị Kiều mà Trung
ương đặt ngang hàng với Nguyễn Thị Chiến của Miền Bắc. Cô đã lên diễn đàn kể
chuyện dùng chiến thuật con khỉ chiếm ba lô-cốt
một lúc, làm thính giả gồm có cả đại tướng khâm phục vỗ tay rần rần. Các nhà
báo chớp ảnh nháy lia, ghi chép đã đời. Tôi nữa, tôi quơ ngay tài liệu đem về
thức đêm “sáng tạo” ra cái truyện ký “Lửa Quê Hương”
đăng báo Văn
Nghệ được độc giả lẫn ở trên khen kịch liệt.
Cái ngọn Lửa Quê Hương nhen
nhúm suốt con đường Trường Sơn, tưởng thành hỏa diệ sơn, nào ngờ về đến Quê Hương
thì lửa kia tắt rụi. Nhưng chưa hết, sau đó ít lâu, tôi mò tới tận nhà vị “nữ
anh hùng” tác giả chiến thuật khỉ kia. Tôi chẳng hiểu như thế nào cả .
Nhưng cũng còn hi vọng ở nhiều nguồn tài liệu khác.
Tôi được cô Hai cho tiếp xúc
với mấy người đã từng biết hoặc xử dụng súng ngựa trời. Đây cũng lại là một
thần thoại do báo Nhân Dân sáng tác nên. Súng ngựa trời đã từng là một loại vũ
khí giúp cho giải phóng quân“chiến thắng oanh liệt, đánh cho quân Mỹ Ngụy
những trận xiển niển”. Hỗ trợ cho cây súng thần thông này là chông ba lá,
lựu đạn gài, ong vò vẽ và kèn trận làm bằng tàu đu đủ. Tôi đã từng đọc một câu
thơ từ Miền Nam gởi ra, mô tả chiến công của giải phóng quân, mà còn nhớ tới
bây giờ.
… Thổi kèn đu đủ mà đồn rút
lui.
Nghĩ ghê gớm thật. Báo Nhân Dân
là một tờ báo nói láo nhất thế giới mà Ban Tuyên Huấn Trung Ương của Tố Hữu là
một ban bầu cua xảo quyệt lừa đảo phi thường.
Bạn đọc chắc ít ai biết cuốn
sách “kể tội Mỹ Ngụy” mang tên “Từ Tuyến Đầu Tổ Quốc”.
Trên hai trăm năm chục trang sách đặc nghẹt những cảnh rùng rợn “chỉ có thể xảy
ra ở Miền Nam ” thôi:
Một binh sĩ Sài Gòn tên Hoàng
Văn Đáp đi trận về gặp con chết bó chiếu đem chôn, những cảnh lính Sài Gòn bắt
một thanh niên mổ bụng lấy gan xào ăn, anh thanh niên được thả ra chạy hoảng
rồi ngã xuống chết v.v… viết dưới hình thức những bức thư ngây ngô ngắn gọn xử
dụng triệt để ngôn ngữ Nam Bộ . Mỗi bài đều ký tên bà X, ông A, chị B… là những
người trong cảnh hoặc từng mục kích những cảnh hãi hùng đó.
Nhưng nào ai biết được tác giả
những bức thư là sáng kiến của Tố Hữu được thực hành bởi một đám gốc dưa hấu
làm việc ở Ban Thống Nhất của tướng Nguyễn Văn Vịnh. Vịnh thực
hành “sáng kiến” đó. Một thằng bạn của tôi phụ trách việc này
cho biết như thế, mà không cần hắn cho biết chuyện đó, tôi cũng đoán được.
Tôi hỏi hắn sao không nhờ Hội
Nhà Văn? Hắn nói thẳng:
- Nhà văn tụi mày hay trở cờ
lắm, vả lại đám tay ngang viết càng ngô nghê, càng trật cú pháp càng làm cho
độc giả dễ tin.
Sẵn đây tôi cũng kể luôn vài vụ
bịp na ná như vậy. Đâu khoảng 58-59 gì đó, đài Hà Nội và báo Nhân Dân đưa tin
vụ “thảm sát Phú Lợi” bảo:
- Ngô Đình Diệm đã bỏ thuốc độc
giết trên hai ngàn tù nhân ở Phú Lợi.
Thế là cả Miền Bắc vang lên
tiếng hô “đả đảo”. Rồi Trung ương ra lệnh cho dân biểu tình tuần
hành ở Hà Nội và các thành phố Nam Định, Hải Phòng, Hà Đông, Thanh Hóa… “chống
Ngô Đình Diệm!”
Cũng Tố Hữu bày ra “thức
đêm sáng tác gây căm thù” và làm bài “Thù muôn đời muôn kiếp không
tan” trước tiên trên báo Nhân Dân. Kế đó là Chế Lan Viên, Xuân Diệu,
v.v.. thức đêm làm thơ ! Thơ quá hay nên tôi chẳng còn nhớ câu nào. Khi tôi về
Sài Gòn, tôi cố ý tìm hiểu vụ này nên đã đi đến tận nơi vùng đất có cái tên là
Phú Lợi. Tôi bí mật điều tra thì chẳng ai biết đó là gì.
Rồi đến vụ “Anh hùng
Nguyễn Văn Trỗi”. Văn nghệ sĩ lại phải một đêm không ngủ . Nhất là họa sĩ
và các nhà quay phim. Những ngã tư lớn của Hà Nội đều có treo áp phích “Nguyễn
Văn Trỗi trước lưỡi lê”. Lại cũng Tố Hữu đi đầu
với bài thơ “Hãy Nhớ Lấy Lời Tôi”. Trong đó có câu:
“Phút thiêng liêng anh gọi bác
ba lần”.
Dân có biệt tài nói lái Nam Kỳ
bảo:
- Chính anh Trỗi gọi bác “bốn
lần”.
Mãi đến khi ra hải ngoại, tôi
mới đọc một bài, nếu tôi không lầm thì tác giả là một luật sư, nói về những
phút cuối cùng của vị “anh hùng” đó. Anh ta đái cả ra quần và
không còn biết gì trước khi được áp giải ra bãi bắn, lại chửi:
- Quân đỉ chó nó lừa tao.
Còn về toàn cuộc Trỗi đặt mìn
trên cầu Công Lý là cả một chuyện mỉa mai cho vong hồn Trỗi. Lúc đó Trỗi mới
cưới vợ, cô vợ có nhan sắc. Tổ trưởng đặc công của Trỗi đâu phải là thằng mù .
Đã không mù lại càng sáng mắt sáng hơn nữa. Lúc tôi về trên R tôi có nghe một
vài tiếng xì xầm, bảo rằng có một thâm ý, một dã tâm, ở đằng sau vụ đặt mìn
này. Trỗi ôm nguyên “trái mìn”bỏ vợ mới cưới là do sự chỉ huy sáng
suốt của đồng chí tổ trưởng. Một vụ Nguyễn Bình tái diễn. Chỉ khác một điều là
Bình không có vợ. Tôi muốn phăng tới ngọn nguồn, nhưng người ta bảo tôi hãy đọc
quyển “Sống Như Anh”, dân Hà Nội chế diễu đọc là “Không
Sống Như Anh!”, của Trần Đình Vân thì rõ. Chính các đồng chí giai cấp công
nhân đã bố trí cho Trỗi lên chức “anh hùng” này. Tội nghiệp cô
Quyên góa bụa suốt đời vì cô không thể sánh duyên cùng các bác, mà các bác
không ham làm kẻ đến sau. Còn các cậu thanh niên thì chẳng dám hoặc chẳng dại
gì mó tới. Bác Nguyễn Chí Thanh ơi, vong hồn bác có linh thiêng xin hãy giúp
cho đứa “cháu gái” yêu quí mà bác cưng như vàng hồi còn mồ ma
bác!
Tôi ngon trớn dắt độc giả đi
hơi xa đạo quân đầu tóc và súng ngựa trời, nhưng
không lạc đề. Tôi muốn nói rõ một vấn đề: Cộng Sản nói ra là bịp. Chúng bịp
nhân dân trong nước, nhân dân thế giới là sự thường. Chúng bịp lẫn nhau. Như
trường hợp “nữ anh hùng” Tạ Thị Kiều tôi vừa kể trên. Như vụ
Nguyễn Bình chống Pháp và vụ Nguyễn Văn Trỗi thời chống Mỹ .
Khi nghe tên cô nàng ở ngoài
Bắc, tôi đã chíp trong bụng, dự định sẽ sáng tạo cô thành nhân vật chính của
truyện nhưng bây giờ thì cái sườn đã lung lay.
Tôi đi tìm hiểu “súng
ngựa trời”. Phải mất năm ngày đi tới đi lui tôi mới được chú Bảy Mãn
người chôn giấu con ngựa trời, dắt cho đi xem. Tôi phải theo chân băng đồng khá
vất vả. Cánh đồng này thuở bé tôi đã từng bắt ốc mò cua thả diều, chơi dế, bây
giờ tôi không nhìn ra. Chỉ còn đám cây xanh ngắt là còn đứng nguyên tại chỗ. Đó
là cảnh chùa Phật Oai Linh Tự sau nhà ngoại tôi. Từ đó tôi có
thể tìm ra phía lộ đá Cầu Mống Giồng Luồng thì thấy hai mảnh mặt trời mọc. Đó
là nóc nhà của ông Phủ Kiểng, suôi gia của Hội Đồng Trạch, và nóc nhà của ông
Phó Hoài, hai vị đại điền chủ lừng lanh này được dân kính nể và cử tên, gọi là
ông Phủ Cảnh và ông Phó Huời. Người ta đồn nóc nhà
lợp bằng ngói mua bên Tây nên không đóng rêu, cứ đỏ như mặt trời.
Gia đình chú Bảy Mãn là tá điền
cũ của ông cụ tôi nên cô Hai tôi sai khiến dễ dàng. Bảy Mãn mới ngoài bốn mươi,
nhưng ông để râu tóc bồm xồm coi như tuổi sáu mươi. Để khi bị lính quốc gia bắt
thì giơ cái tuổi già ra mà chạy tội và hy vọng sẽ được tha.
Bảy Mãn dắt tôi ra một cái đìa
ở giữa đồng rồi nhảy xuống nước lặn hồi lâu mới trồi lên. Tôi hỏi:
- Được không chú ?
Chú vuốt mặt và lắc đầu.
- Chú không nhớ chỗ giấu à ?
- Lính ruồng kỳ trước tôi xách nó
ra đạp xuống đây, không biết nó lạc đi đâu?
Bảy Mãn lại tiếp tục lặn. Hai
ba lượt mới lôi được con ngựa trời lên đưa cho tôi. Tôi đã thấy ngựa trời đứng
hiên ngang ở Viện Bảo Tàng Cách Mạng Hà Nội với dòng chữ:
“Khẩu súng này đã đánh tan một
đại đội giặc ruồng vào xã Phước Hiệp, Quận Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. “
Vì những địa danh này thuộc
tỉnh tôi nên tôi khắc ghi trong lòng. Định khi về sẽ tìm đến nơi để lấy tài
liệu. Xã Phước Hiệp cách đây không xa. Có ngày tôi sẽ đến đó.
Tạm thời bây giờ xem đỡ con
ngựa này cũng được. Tội nghiệp chú ngựa xưa kia chức có sắc lông màu
lửa của cuộc Đồng Khởi vĩ đại bây giờ bị đạp lút dưới đất cái nên hóa ra ngựa
ô.
Tôi nâng cái bảo vật Cách Mạng
đặt lên gò đìa trong khi chú Bảy Mãn leo lên bờ đứng run run. Với hai hàm răng
khua lặp cặp, chú nói:
- Cậu Hai xem mau mau dùm chút.
- Để tôi rửa sạch đã.
- Hay cậu cứ giữ lấy hoặc đem
đi đâu thì đem.
- Tôi giữ làm gì?
- Vậy cậu coi mau mau để tôi bỏ
xuống để người ta trông thấy.
Tôi lấy làm lạ tại sao y sợ như
vậy. Vả lại ngó qua là tôi đã “chụp” được hình nó rồi. Cần gì
phải xem lâu. Ở ngoài Hà Nội tôi còn phịa nổi truyện Lửa Quê Hương kia
mà, huống chi đã về đến quê hương rồi ! Tôi bảo Bảy Mãn:
- Chú vùi trở lại đi !
Bảy Mãn nhanh nhẹn chụp lấy chú
ngựa ô nhảy xuống đìa lặn một hơi rồi trồi lên dặn tôi:
- Cậu Hai nhớ chỗ này. Khi cần
cậu cứ đến móc nó lên, không cần hỏi tôi nữa.
- Bộ chú tính không xài nữa hay
sao mà đạp kỹ vậy?
Bảy Mãn không nói gì leo lên bờ
rồi cun cút lủi đi không nói thêm tiếng nào. Tôi phải đuổi theo bảo chú nói về
cách xử dụng và đạn dược ra sao, những trận đánh nào ngựa đã khạc lửa. Nhưng
chú xua tay:
- Cậu về hỏi cô Hai, cổ rành
hơn ! Tôi quên hết rồi.
Rồi chú biến nhanh như sợ người
khác trông thấy cái việc vừa làm của mình. Về nhà tôi hỏi cô Hai, thì cô nói:
- Mấy thằng cha đó bây giờ “sọc
dưa” hết rồi.
- Hồi Đồng Khởi chú có tham gia
không?
- Thì thằng chả đi lấy kiểu đâu
trên Phước Hiệp Định Thủy gì về bắt mấy ông lò rèn làm đó chớ ai.
- Sao bây giờ chú sợ người ta
thấy?
- Sau Đồng Khởi chẳng ngờ Quốc
Gia nó mạnh như vậy. Rút bao nhiêu đồn nó đều đóng trở lại mà còn lấn thêm. Mấy
ông nội có dính dáng tới Đồng Khởi bây giờ bôi mặt lem lem để sống cho yên
thân. Nghĩa là không muốn chiến đấu nữa, nên tìm cách lân la với địch và mong
nó quên cho cái dĩ vãng.
Tôi hỏi qua con ngựa trời. Cô
nói:
- Thì nó như cháu thấy đó .
- Không có gì nữa à ?
- Chỉ bấy nhiêu thôi.
- Rồi đạn dược làm bằng gì?
- Miểng sành, sắt vụn, hộp lon
cắt nhỏ ra, dồn vào nện chắc, bên ngoài đổ sáp.
- Còn thuốc nổ?
- Cô không rõ , để bữa nào cô
giới thiệu cho mấy người rành vụ đó .
Tôi lấy giấy vẽ ra hình thù con
ngựa và hỏi:
- Có phải nó như thế này không
cô ?
- Ừ, chắc là như vậy.
- Trong xã mình có xử dụng nó
lần nào chưa cô?
- Có một lần phục kích ở Ngã Ba
Lộ Chùa. Chùa Tuyên Linh đường vô Cầu Mống chớ không phải Chùa Oai Linh ở sau
đồng.
- Kết quả ra sao cô?
- Bắn không nổ. Dưới Giồng
Lượng có Tổng Y. Trên Cầu Mống có Tổng Cường là dượng rể của cháu. Nhưng Tổng Y
có lính, thường đi ruồng miệt Cải Bần có khi thọc tới trên ranh Minh Đức, còn
Tổng Cường thì nhát lắm không dám ra khỏi chợ Cầu Mống. Trận đó du kích bị lính
rượt chạy suýt chết. Mất một cây, còn một cây, y đem về nhận luôn xuống đìa tới
bây giờ không nhắc tới nữa.
Bạn đọc muốn biết món vũ
khí “thần thông” này ư? Đó là một cái ống trúm bằng sắt to nhỏ
tùy sự sáng tạo. Ở trước đầu có hai cái chân chỏi nó ngước họng lên. Miệng nó
dồn loại đạn đặc biệt như bà Huyện ủy vừa mô tả. Thuốc nổ nhét sau đuôi. Cái
kim hỏa nện vào hột nổ bằng một sợi dây thun căng thẳng. Chỉ có thế. Chắc chắn
trên thế giới không có loại vũ khí nào đơn sơ hơn cây súng “Ngựa Trời” .
Vậy mà đánh cho Mỹ Ngụy những đòn xiên niển!!!
Vậy là xong con ngựa trời. Vừa
nghỉ dưỡng sức vừa đi sưu tầm tài liệu ở xã nhà, tôi nghĩ dần cái dàn bài cho
tiểu thuyết Đồng Khởi. Lúc bấy giờ trực thăng thường đổ chụp
phía bên Cù Lao Bảo, cho nên tôi ở Cù Lao Minh bên này cũng khá yên ổn. Một hôm
cô Hai bảo tôi:
- Cô cho cháu cái đề tài hay
lắm.
- Đề tài gì vậy cô?
- Bà Điên. Bả điên
nhưng nói toàn chuyện Cách Mạng mà bằng thơ lục bát chớ không nói chuyện như
mình. Ví dụ như: Ngày ngày bắt ốc hái rau, ngày mai ta sẽ lên lầu vinh
quang, hoặc là Bao giờ thằng ngốc làm vua, Tổng Y sẽ rụiTổng Cường
lên ngôi!
- Ngôi gì, cô?
- Đã bảo là bả điên mà ! Tổng Y
nghe câu đó cho lính tới bắt vô bót đập cho một trận nhưng về nhà vẫn đọc thơ
chửi rủa Tổng Y, và càng điên hơn trước.
Tôi thích lắm. Định bụng sẽ xây
dựng bà Điên thành nhân vật rất lý thú. Trong vở kịch “Lu Ba” của
Liên Xô mô tả Cách Mạng Tháng Mười, được Hà Nội cõng về dịch ra rồi mời đạo diễn
Liên Xô qua dạy, diễn triền miên ở Nhà Hát Tây, có một nhân vật khùng khùng rất
xuất sắc do kép Đào Mộng Long đóng hay cho đến đỗi không ai thay được. Bây giờ
Cách Mạng Đồng Khởi cũng có thua gì. Tôi đi tìm gặp bà Điên ngay.
Trước kia vào thời Pháp, cặp
hai bên rạch Tân Hương là hai con lộ. Dân chúng đi lại rất dễ dàng. Bây giờ lộ
bị đào xới rào rắp cắm bảng tử địa từng chặng một, không ai dám đi, chỉ để du
kích. Dân phải đi đường ở sau ruộng. Đó là những bờ ranh, được giải phóng gọi
là Lộ Mới, nhỏ hẹp bất tiện hơn lộ làng bội phần.
Từ nhà bà cụ tôi muốn đi chợ
Tân Hương phải qua nhà ngoại tôi. Rồi từ chợ băng đồng đến nhà bà Điên.
Muốn đến chợ phải đi qua một
chiếc cầu sắt. Tuy không có xe hơi qua lại, nhưng chiếc cầu rất chắc chắn. Nhà
bà đề tài ở gần vườn Mù U của ông Cả Hóa, một điền chủ lớn trong làng, có người
con trai tên Nhì Ưu cùng đi học với cậu Bảy tôi ở trường Phú Xuân ngoài Huế.
Lúc nhỏ tôi và cậu Tám tôi thường đến đây hớt cá lia thia về nuôi. Cá ở vườn
này nổi tiếng là loại cá chiến, đá bền và rất dữ.
Bây giờ trở lại đây, tôi không
còn thấy ngôi nhà xưa vĩ đại núp trong khu vườn sầm uất nữa. Đây là một nhà
giàu xưa, tiền đầy cả rương xe, nhưng không xài phí, chỉ có đám con phá của.
Gia đình này bỏ lên thành, không tham gia kháng chiến. Ngôi nhà cũng bị phá
hoại thời kháng Pháp và giải phóng cạp sạch sau Đồng Khởi như nhà ngoại tôi.
Còn vườn Mù U thì mạnh ai nấy đốn nên không còn một gốc. Tôi gặp bà Điên ở
trong một ngôi chòi lụp xụp của con dâu bà. Bà không còn ra người. Tôi muốn
khai thác ngay điểm đó, nên vô đề ngay:
- Nghe nói bà cụ bị lính Tổng Y
đánh bệnh nặng…
Người con dâu không đợi tôi dứt
lời, nói ngay:
- Ổng đâu có đánh đập gì. Ổng
nghe đồn má tôi mắc bịnh như vậy, ông cho lính bắt đem về hốt thuốc cho uống,
rước thầy pháp ếm đối, nhưng không hết. Ổng còn cho mấy trăm về nhà chạy thầy.
Tôi bị hẫng, nên lái sang
chuyện khác:
- Bà cụ bịnh từ hồi nào vậy
chị?
- Hồi trước 45 lận mà . Nhưng
hồi đó còn nhẹ , rồi nặng lần lần. Hồi Đồng Khởi mình đánh trống đánh mõ suốt
đêm ngày nên má tôi mất trí luôn đó chớ đâu có ai đánh đập làm chi một bà già.
Thế là tôi bị cụt hứng, như cái
đề tài ngựa trời.
Một buổi chiều tôi ngồi ở mé
sông xem địa thế phòng khi có chụp dù thì dông ngả nào cho tiện. Tôi tưởng ông
cán Mùa Thu về thì được săn đón hoan hô ngất trời, nhưng không có ma nào thèm
ngó tới. Nếu không có gia đình nội, ngoại tôi thì tôi không biết nương tựa nơi
ai.
Thình tinh đò máy đỗ lại. Đây
là con đò không bến. Chỗ nào có khách lên khách xuống thì nó tắp vào rồi khách
cứ chịu khó lội, chớ không có chỗ nào nhất định.
Bỗng một tiếng kêu:
- Triết.
Tôi nhìn xuống mũi đò nơi khách
đang lúm xúm chuẩn bị vọt lên, thấy một người tóc bạc. Phải mất mấy giây đồng
hồ tôi mới nhận ra cậu Bảy tôi. Tôi như bị ngọng, kêu lên mà không rõ tiếng.
Như một giấc chiêm bao. Trên mười năm xa cách, kể từ hòa bình lập lại tới nay.
Tôi đi theo cậu về nhà ngoại.
- Sao cậu biết con về ?
- Dì Năm lên Sài Gòn gọi cậu.
Tôi buột miệng hỏi liền.
- Sao cậu không ở nhà mà đi lên
trển?
- Chính ngoại cũng không muốn
cậu ở nhà.
Tôi đã biết ngay tại sao, nên
không đá động tới việc đó nữa. Cậu hận vì cái chết của đứa em trai. Hận kháng
chiến, hận đủ thứ. Không người kháng chiến nào, dù còn theo đuổi hay bỏ về
thành, mà không hận kháng chiến. Năm 1950 lúc ở miền Tây, tôi cũng đã chèo
xuồng ra thành rồi. Rủi thay gặp thằng bạn chí thân chận lại nghe nó than một
câu: “Mày đi rồi tao chơi với ai ?” mà trở lại. Cậu tôi là một
trí thức lại càng hận kháng chiến tràn đầy. Ngoại tôi gặp hai cậu cháu tôi cùng
một lúc thì mừng lắm, làm thịt cả một con vịt. Ngoại tôi rưng rưng nước mắt,
bảo:
- Cậu cháu có nói gì thì nói
cho hết đêm nay đi, khuya xuống đò trở lên trển.
Tôi biết ngoại tôi càng hận về
cái chết của cậu Tám tôi. Ngồi trước mặt người cậu thân yêu, tôi như thấy lại
tôi hai chục năm trước, một học sinh thành tập tễnh đi theo Cách Mạng với tất
cả lòng yêu nước hồn nhiên như trong một bài hát của dân tộc Pháp..
Mère Patrie renaîtra! (Tổ Quốc sẽ tái sinh!)
Thiệt sung sướng và tự hào cho
người kháng chiến. Thời đó ai ở nhà là cảm thấy có tội với Tổ Quốc. Cậu tôi dắt
tôi đi cho tôi vào trường huấn luyện cán bộ Thanh Niên Cứu Quốc tỉnh lúc tôi
chưa thành niên. Rời trường đó, tôi xa cậu tôi như chim đủ lông cánh bay khắp
trời. Cậu hỏi.
- Cháu ra ngoài có gặp bà con
Bến Tre mình không?
- Có gặp đủ hết cậu à .
- Họ công tác có phấn khởi
không?
- Dạ được.
- Như ai kể cho cậu nghe để cậu
mừng.
Tôi đã nói láo về cái Miền Bắc
xã hội chủ nghĩa ôn dịch với biết bao nhiêu người tôi gặp trên đường từ R về
đến đây êm xuôi trót lọt, chỉ có lần bị một cậu giao liên ở Vàm Cỏ Đông chơi vô
bảng họng thôi. Bây giờ tôi có thể nào dối gạt cậu tôi? Tôi không có can đảm.
Hơn nữa cậu tôi không phải là người dễ nghe tuyên truyền. Chính cậu từng là
Trưởng Ban Tuyên Huấn Thanh Niên Cứu Quốc tỉnh thời anh Mạch Văn Tư làm Tỉnh
Đoàn Trưởng.
Tôi không nghĩ ngợi gì hết, bắt
đầu kể về ông Nguyễn Văn Huệ, tức ông Mười Huệ, tức ông Đốc Huệ ở Giồng Trôm
từng làm Chủ Tịch Tỉnh suốt chín năm. Tôi nói:
- Dân Nam Kỳ hi sinh không để
làm gì hết cậu à !
Cậu tôi ngồi điềm nhiên không
tỏ vẻ gì hết khi nghe câu chuyện của tôi.
Thực tế thì tôi không thể nào
đám xuống một cái hầm thuộc loại siêu như vậy, nhưng về mặt tâm lý thì tôi thấy
như đã có một cái bửu bối gì che chở cho mình, nên cũng yên tâm mà sưu tầm tài
liệu để viết về Đồng Khởi.
Tôi bỏ qua việc kiếm vợ để
lo “việc nước”, tức là sáng tác. Lúc bấy giờ ở Hà Nội, báo Văn Nghệ
lâu lâu mới nhận được bài của Anh Đức hay Giang Nam. Chúng nó nói toàn chuyện
lên mây gỡ vảy rồng, xuống biển xỏ mũi kình ngư. Nhưng khi tôi về đến R thì
thấy chúng nằm chèo queo rên hừ hừ. Thằng Đức thì còn đi được một chuyến xuống
tới Rạch Giá quơ được tài liệu mồm rồi phịa ra cái Hòn Đất, do nhà
xuất bản Văn Nghệ in. Tố Hữu bắt bác sĩ Trần Hữu Tước, chủ nhiệm khoa Tai, Mũi,
Họng Bệnh Viện Bạch Mai, dịch ra tiếng Pháp để bịp thế giới. Tôi có liếc sơ vài
trang thì thấy nó rất đúng lập trường chống Mỹ của đảng. Tôi không bao giờ đọc
hết một trang của anh bạn văn này vì tôi thấy nó viết bằng lập trường hơn là
cảm xúc.
Bây giờ đến phiên tôi phịa ra
một cái tiểu thuyết Đồng Khởi kiểu Hòn Đất.
Tôi bắt đầu tìm tài liệu ngay
trong gia đình bà cụ tôi, nơi cô Hai chi ủy và bà Bảy đảng ủy. Cô Hai bằng tuổi
tôi. Hồi đầu kháng chiến trong lúc cô đội nón rơm, mặc đồ tây, lưng đeo dao găm
hò hét thiếu nhi đi nhịp “một hai” và hát “Lên Đàng” thì
ở trong Cầu Mống tôi cũng làm như vậy. Sau hai chục năm gặp lại nhau, một người
làm chi ủy, một người tập kết mới về.
Còn bà Bảy tôi, thật tình tôi
không hiểu tại sao bà vô đảng và làm tới đảng ủy? Bà học chữ nho nơi ông cụ
tôi, từ nhỏ không đến trường, khuê môn bất xuất chuyên theo bốn chữ công,
dung, ngôn, hạnh, thêu thùa rất khéo nổi tiếng cả một vùng, mở lớp dạy học
trò tại gia. Một người con gái đọc chữ nho ron rót lại vô đảng. Ai dám giới
thiệu? Thế mà bà đã vô.
Một hôm nhân lúc cô Hai đi họp
về ghé qua. Cô tích cực thấy mà ngán. Cô có con nhỏ, cô bế lội mương lội xẻo đi
họp, đi “chỉ đạo công tác” hằng ngày, không mấy khi cô có mặt
ở nhà. Bà cụ tôi bảo:
- Nó làm kiểu đó, con nó lên ba
là nói chính trị nghe mà mệt cho coi.
Cô vào nhà vừa để bé lên võng,
tôi nói ngay:
- Cô cho cháu hỏi thăm vài vấn
đề địa phương chút cô Hai.
- Ừ hỏi thì hỏi đi. Cô nói cho
nghe mặc tình mà viết. .
- Ở ngoài Bắc cháu có nghe
chuyện đấu tranh của đạo quân đầu tóc của Tạ Thị Kiều.
Cô ngơ ngác:
- Tạ Thị Kiều nào?
- Dạ Tạ Thị Kiều anh hùng quân
đội.
- Hồi nào?
- Dạ trước khi cháu về Nam,
cháu có dự một hội nghị “anh hùng giải phóng” trong đó có cô
Kiều.
- Sao cô không biết? Quê cô ta
ở đâu?
- Ở An Thành, là xã có Mả ông
Hàm Văn gần Thom.
- Cô đi họp huyện ủy hoài sao
cô không biết? Nếu có người trong huyện đi ra Bắc thì phải thông qua huyện ủy
chớ. Cô ta chừng bao nhiêu tuổi? Hình dáng ra sao?
- Dạ cổ chừng hai mươi lăm,
nghe nói là chưa có chồng . Cổ rất sợ chó con. Hễ thấy chó con là chết ngất. Cổ
báo cáo chiến thuật đoạt bót của cổ bằng con khỉ.
- Chuyện gì lạ vậy, cô không
biết gì hết!
- Cổ báo cáo rằng cổ dùng con
khỉ nhử tụi lính ra khỏi lô-cốt và hò du kích xung phong lấy lô-cốt.
- Cô không biết chuyện này
trong huyện như vậy hết. Nếu có là cô phải biết.
Tôi bèn hỏi sang đạo quân đầu
tóc. Cô nói:
- Có thể ở đâu trên Phước Hiệp,
Định Thủy gì đó, chớ ở dưới này, Minh Đức, Hương Mỹ, Tân Trung, Ngãi Đăng, Cẩm
Sơn, An Định, Thành Thới, An Thới do cô phụ trách thì không có quân nào gọi là
quân đầu tóc.
Tôi mới vỡ lẽ ra cô là huyện ủy
viên.
- Vậy sao ở ngoài cháu nghe
chính tên các xã cô vừa kể là xuất phát điểm của quân đầu tóc. Báo kể chính
danh các xã mình cháu mừng muốn chết đây mà ! Quê hương mình anh dũng như vậy
cho nên cháu mới lặn lội về đây để“viết báo”.
Thấy cô ngồi lặng thinh có vẻ
bối rối, tôi hiểu ngay cái nghiệp báo của nhà mình nên tôi lảng sang vấn đề
khác.
- Còn ba cây súng ngựa trời như
thế nào, cô?
- Cái đó thì có. Hầm chông, lựu
đạn gài cũng có. Để cô viết cho miếng giấy giới thiệu cháu với mấy đồng chí có
trách nhiệm hồi đó. Nhưng cháu phải chịu khó móc họ ra chớ bây giờ họ cầu an
bảo mạng không chịu làm gì nữa hết. Có nhiều người muốn ra vùng meo đóng vai
lem nhem.
- Nghĩa là sao cô?
- Là ở trong này bom đạn ác
liệt quá, họ không chịu nổi nên men ra vùng trái độn, mặc áo trắng, gặp lính
như dân chợ. Thời buổi này mà mặc áo trắng là đầu hàng địch rồi cháu ạ. Cháu sẽ
thấy. Số này không ít đâu. Chi bộ họp đề ra nhiều biện pháp kỷ luật nhưng vẫn
không kết quả.
Buổi nói chuyện đầu tiên không
mấy gì mỹ mãn cho cả cô lẫn cháu. Cô bất mãn, còn cháu hoang mang.
Tôi hơi thối chí. Vì tôi biết
đây là cái ngón của Ban Tuyên Huấn Trung ương. Tố Hữu bẽm mép phi thường. Cả
ngàn văn nghệ sĩ dưới quyền chỉ huy của hắn, hắn xoay bề nào phải chịu bề nấy.
Trước đây, khi Hòa Bình vừa lập lại, bộ đội Nam Bộ tập kết ra Bắc, có mấy chiến
sĩ được chọn và trao tặng danh hiệu “Anh Hùng Quân Đội”. Tôi là nhà
văn Nam Bộ duy nhất được “danh dự” (!) mời ra Hà Nội để viết
về thành tích của Anh Hùng Sơn Ton người Miên lai thuộc bộ đội
địa phương Sóc Trăng. Điều tra xong, tôi báo cáo lên cấp trên rằng đây không
phải là một anh hùng. Nếu Sơn Ton là anh hùng quân đội thì bất cứ chiến sĩ nào
cũng có thể là anh hùng quân đội được cả. Trước khi chia tay tôi cổ hỏi Sơn Ton
tại sao như vậy? Sơn Ăn nói rằng “Ở trên Ban Thi Đua Trung Đoàn đem cả thành
tích của huyện Long Phú đắp vào cho tôi!”
Chuyện này tôi viết lên báo
Việt ngữ hải ngoại một vài lần rồi, nhưng quên cho anh ta đi “song
ca” với chiến sĩ gái Tạ Thị Kiều. Nay bỗng dưng nhớ lại.
Lúc ở ngoài Bắc tôi có
được “danh dự”, cũng danh dự, gặp nữ anh hùng Tạ Thị Kiều mà Trung
ương đặt ngang hàng với Nguyễn Thị Chiến của Miền Bắc. Cô đã lên diễn đàn kể
chuyện dùng chiến thuật con khỉ chiếm ba lô-cốt
một lúc, làm thính giả gồm có cả đại tướng khâm phục vỗ tay rần rần. Các nhà
báo chớp ảnh nháy lia, ghi chép đã đời. Tôi nữa, tôi quơ ngay tài liệu đem về
thức đêm “sáng tạo” ra cái truyện ký “Lửa Quê Hương”
đăng báo Văn
Nghệ được độc giả lẫn ở trên khen kịch liệt.
Cái ngọn Lửa Quê Hương nhen
nhúm suốt con đường Trường Sơn, tưởng thành hỏa diệ sơn, nào ngờ về đến Quê
Hương thì lửa kia tắt rụi. Nhưng chưa hết, sau đó ít lâu, tôi mò tới tận nhà
vị “nữ anh hùng” tác giả chiến thuật khỉ kia. Tôi chẳng hiểu
như thế nào cả . Nhưng cũng còn hi vọng ở nhiều nguồn tài liệu khác.
Tôi được cô Hai cho tiếp xúc
với mấy người đã từng biết hoặc xử dụng súng ngựa trời. Đây cũng lại là một
thần thoại do báo Nhân Dân sáng tác nên. Súng ngựa trời đã từng là một loại vũ
khí giúp cho giải phóng quân“chiến thắng oanh liệt, đánh cho quân Mỹ Ngụy
những trận xiển niển”. Hỗ trợ cho cây súng thần thông này là chông ba lá,
lựu đạn gài, ong vò vẽ và kèn trận làm bằng tàu đu đủ. Tôi đã từng đọc một câu
thơ từ Miền Nam gởi ra, mô tả chiến công của giải phóng quân, mà còn nhớ tới bây
giờ.
… Thổi kèn đu đủ mà đồn rút
lui.
Nghĩ ghê gớm thật. Báo Nhân Dân
là một tờ báo nói láo nhất thế giới mà Ban Tuyên Huấn Trung Ương của Tố Hữu là
một ban bầu cua xảo quyệt lừa đảo phi thường.
Bạn đọc chắc ít ai biết cuốn
sách “kể tội Mỹ Ngụy” mang tên “Từ Tuyến Đầu Tổ Quốc”.
Trên hai trăm năm chục trang sách đặc nghẹt những cảnh rùng rợn “chỉ có thể xảy
ra ở Miền Nam ” thôi:
Một binh sĩ Sài Gòn tên Hoàng
Văn Đáp đi trận về gặp con chết bó chiếu đem chôn, những cảnh lính Sài Gòn bắt
một thanh niên mổ bụng lấy gan xào ăn, anh thanh niên được thả ra chạy hoảng
rồi ngã xuống chết v.v… viết dưới hình thức những bức thư ngây ngô ngắn gọn xử
dụng triệt để ngôn ngữ Nam Bộ . Mỗi bài đều ký tên bà X, ông A, chị B… là những
người trong cảnh hoặc từng mục kích những cảnh hãi hùng đó.
Nhưng nào ai biết được tác giả
những bức thư là sáng kiến của Tố Hữu được thực hành bởi một đám gốc dưa hấu
làm việc ở Ban Thống Nhất của tướng Nguyễn Văn Vịnh. Vịnh thực
hành “sáng kiến” đó. Một thằng bạn của tôi phụ trách việc này
cho biết như thế, mà không cần hắn cho biết chuyện đó, tôi cũng đoán được.
Tôi hỏi hắn sao không nhờ Hội
Nhà Văn? Hắn nói thẳng:
- Nhà văn tụi mày hay trở cờ
lắm, vả lại đám tay ngang viết càng ngô nghê, càng trật cú pháp càng làm cho
độc giả dễ tin.
Sẵn đây tôi cũng kể luôn vài vụ
bịp na ná như vậy. Đâu khoảng 58-59 gì đó, đài Hà Nội và báo Nhân Dân đưa tin
vụ “thảm sát Phú Lợi” bảo:
- Ngô Đình Diệm đã bỏ thuốc độc
giết trên hai ngàn tù nhân ở Phú Lợi.
Thế là cả Miền Bắc vang lên
tiếng hô “đả đảo”. Rồi Trung ương ra lệnh cho dân biểu tình tuần
hành ở Hà Nội và các thành phố Nam Định, Hải Phòng, Hà Đông, Thanh Hóa… “chống
Ngô Đình Diệm!”
Cũng Tố Hữu bày ra “thức
đêm sáng tác gây căm thù” và làm bài “Thù muôn đời muôn kiếp không
tan” trước tiên trên báo Nhân Dân. Kế đó là Chế Lan Viên, Xuân Diệu,
v.v.. thức đêm làm thơ ! Thơ quá hay nên tôi chẳng còn nhớ câu nào. Khi tôi về
Sài Gòn, tôi cố ý tìm hiểu vụ này nên đã đi đến tận nơi vùng đất có cái tên là
Phú Lợi. Tôi bí mật điều tra thì chẳng ai biết đó là gì.
Rồi đến vụ “Anh hùng
Nguyễn Văn Trỗi”. Văn nghệ sĩ lại phải một đêm không ngủ . Nhất là họa sĩ
và các nhà quay phim. Những ngã tư lớn của Hà Nội đều có treo áp phích “Nguyễn
Văn Trỗi trước lưỡi lê”. Lại cũng Tố Hữu đi đầu
với bài thơ “Hãy Nhớ Lấy Lời Tôi”. Trong đó có câu:
“Phút thiêng liêng anh gọi bác
ba lần”.
Dân có biệt tài nói lái Nam Kỳ
bảo:
- Chính anh Trỗi gọi bác “bốn
lần”.
Mãi đến khi ra hải ngoại, tôi
mới đọc một bài, nếu tôi không lầm thì tác giả là một luật sư, nói về những
phút cuối cùng của vị “anh hùng” đó. Anh ta đái cả ra quần và
không còn biết gì trước khi được áp giải ra bãi bắn, lại chửi:
- Quân đỉ chó nó lừa tao.
Còn về toàn cuộc Trỗi đặt mìn
trên cầu Công Lý là cả một chuyện mỉa mai cho vong hồn Trỗi. Lúc đó Trỗi mới
cưới vợ, cô vợ có nhan sắc. Tổ trưởng đặc công của Trỗi đâu phải là thằng mù .
Đã không mù lại càng sáng mắt sáng hơn nữa. Lúc tôi về trên R tôi có nghe một
vài tiếng xì xầm, bảo rằng có một thâm ý, một dã tâm, ở đằng sau vụ đặt mìn
này. Trỗi ôm nguyên “trái mìn”bỏ vợ mới cưới là do sự chỉ huy sáng
suốt của đồng chí tổ trưởng. Một vụ Nguyễn Bình tái diễn. Chỉ khác một điều là
Bình không có vợ. Tôi muốn phăng tới ngọn nguồn, nhưng người ta bảo tôi hãy đọc
quyển “Sống Như Anh”, dân Hà Nội chế diễu đọc là “Không
Sống Như Anh!”, của Trần Đình Vân thì rõ. Chính các đồng chí giai cấp công
nhân đã bố trí cho Trỗi lên chức “anh hùng” này. Tội nghiệp cô
Quyên góa bụa suốt đời vì cô không thể sánh duyên cùng các bác, mà các bác
không ham làm kẻ đến sau. Còn các cậu thanh niên thì chẳng dám hoặc chẳng dại
gì mó tới. Bác Nguyễn Chí Thanh ơi, vong hồn bác có linh thiêng xin hãy giúp
cho đứa “cháu gái” yêu quí mà bác cưng như vàng hồi còn mồ ma
bác!
Tôi ngon trớn dắt độc giả đi
hơi xa đạo quân đầu tóc và súng ngựa trời, nhưng
không lạc đề. Tôi muốn nói rõ một vấn đề: Cộng Sản nói ra là bịp. Chúng bịp
nhân dân trong nước, nhân dân thế giới là sự thường. Chúng bịp lẫn nhau.
Như trường hợp “nữ anh hùng” Tạ Thị Kiều tôi vừa kể trên. Như
vụ Nguyễn Bình chống Pháp và vụ Nguyễn Văn Trỗi thời chống Mỹ .
Khi nghe tên cô nàng ở ngoài
Bắc, tôi đã chíp trong bụng, dự định sẽ sáng tạo cô thành nhân vật chính của
truyện nhưng bây giờ thì cái sườn đã lung lay.
Tôi đi tìm hiểu “súng
ngựa trời”. Phải mất năm ngày đi tới đi lui tôi mới được chú Bảy Mãn
người chôn giấu con ngựa trời, dắt cho đi xem. Tôi phải theo chân băng đồng khá
vất vả. Cánh đồng này thuở bé tôi đã từng bắt ốc mò cua thả diều, chơi dế, bây
giờ tôi không nhìn ra. Chỉ còn đám cây xanh ngắt là còn đứng nguyên tại chỗ. Đó
là cảnh chùa Phật Oai Linh Tự sau nhà ngoại tôi. Từ đó tôi có
thể tìm ra phía lộ đá Cầu Mống Giồng Luồng thì thấy hai mảnh mặt trời mọc. Đó
là nóc nhà của ông Phủ Kiểng, suôi gia của Hội Đồng Trạch, và nóc nhà của ông
Phó Hoài, hai vị đại điền chủ lừng lanh này được dân kính nể và cử tên, gọi là
ông Phủ Cảnh và ông Phó Huời. Người ta đồn nóc nhà
lợp bằng ngói mua bên Tây nên không đóng rêu, cứ đỏ như mặt trời.
Gia đình chú Bảy Mãn là tá điền
cũ của ông cụ tôi nên cô Hai tôi sai khiến dễ dàng. Bảy Mãn mới ngoài bốn mươi,
nhưng ông để râu tóc bồm xồm coi như tuổi sáu mươi. Để khi bị lính quốc gia bắt
thì giơ cái tuổi già ra mà chạy tội và hy vọng sẽ được tha.
Bảy Mãn dắt tôi ra một cái đìa
ở giữa đồng rồi nhảy xuống nước lặn hồi lâu mới trồi lên. Tôi hỏi:
- Được không chú ?
Chú vuốt mặt và lắc đầu.
- Chú không nhớ chỗ giấu à ?
- Lính ruồng kỳ trước tôi xách
nó ra đạp xuống đây, không biết nó lạc đi đâu?
Bảy Mãn lại tiếp tục lặn. Hai
ba lượt mới lôi được con ngựa trời lên đưa cho tôi. Tôi đã thấy ngựa trời đứng
hiên ngang ở Viện Bảo Tàng Cách Mạng Hà Nội với dòng chữ:
“Khẩu súng này đã đánh tan một
đại đội giặc ruồng vào xã Phước Hiệp, Quận Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. “
Vì những địa danh này thuộc
tỉnh tôi nên tôi khắc ghi trong lòng. Định khi về sẽ tìm đến nơi để lấy tài
liệu. Xã Phước Hiệp cách đây không xa. Có ngày tôi sẽ đến đó.
Tạm thời bây giờ xem đỡ con
ngựa này cũng được. Tội nghiệp chú ngựa xưa kia chức có sắc lông màu
lửa của cuộc Đồng Khởi vĩ đại bây giờ bị đạp lút dưới đất cái nên hóa ra ngựa
ô.
Tôi nâng cái bảo vật Cách Mạng
đặt lên gò đìa trong khi chú Bảy Mãn leo lên bờ đứng run run. Với hai hàm răng
khua lặp cặp, chú nói:
- Cậu Hai xem mau mau dùm chút.
- Để tôi rửa sạch đã.
- Hay cậu cứ giữ lấy hoặc đem
đi đâu thì đem.
- Tôi giữ làm gì?
- Vậy cậu coi mau mau để tôi bỏ
xuống để người ta trông thấy.
Tôi lấy làm lạ tại sao y sợ như
vậy. Vả lại ngó qua là tôi đã “chụp” được hình nó rồi. Cần gì
phải xem lâu. Ở ngoài Hà Nội tôi còn phịa nổi truyện Lửa Quê Hương kia
mà, huống chi đã về đến quê hương rồi ! Tôi bảo Bảy Mãn:
- Chú vùi trở lại đi !
Bảy Mãn nhanh nhẹn chụp lấy chú
ngựa ô nhảy xuống đìa lặn một hơi rồi trồi lên dặn tôi:
- Cậu Hai nhớ chỗ này. Khi cần
cậu cứ đến móc nó lên, không cần hỏi tôi nữa.
- Bộ chú tính không xài nữa hay
sao mà đạp kỹ vậy?
Bảy Mãn không nói gì leo lên bờ
rồi cun cút lủi đi không nói thêm tiếng nào. Tôi phải đuổi theo bảo chú nói về
cách xử dụng và đạn dược ra sao, những trận đánh nào ngựa đã khạc lửa. Nhưng
chú xua tay:
- Cậu về hỏi cô Hai, cổ rành
hơn ! Tôi quên hết rồi.
Rồi chú biến nhanh như sợ người
khác trông thấy cái việc vừa làm của mình. Về nhà tôi hỏi cô Hai, thì cô nói:
- Mấy thằng cha đó bây giờ “sọc
dưa” hết rồi.
- Hồi Đồng Khởi chú có tham gia
không?
- Thì thằng chả đi lấy kiểu đâu
trên Phước Hiệp Định Thủy gì về bắt mấy ông lò rèn làm đó chớ ai.
- Sao bây giờ chú sợ người ta
thấy?
- Sau Đồng Khởi chẳng ngờ Quốc
Gia nó mạnh như vậy. Rút bao nhiêu đồn nó đều đóng trở lại mà còn lấn thêm. Mấy
ông nội có dính dáng tới Đồng Khởi bây giờ bôi mặt lem lem để sống cho yên
thân. Nghĩa là không muốn chiến đấu nữa, nên tìm cách lân la với địch và mong
nó quên cho cái dĩ vãng.
Tôi hỏi qua con ngựa trời. Cô
nói:
- Thì nó như cháu thấy đó .
- Không có gì nữa à ?
- Chỉ bấy nhiêu thôi.
- Rồi đạn dược làm bằng gì?
- Miểng sành, sắt vụn, hộp lon
cắt nhỏ ra, dồn vào nện chắc, bên ngoài đổ sáp.
- Còn thuốc nổ?
- Cô không rõ , để bữa nào cô
giới thiệu cho mấy người rành vụ đó .
Tôi lấy giấy vẽ ra hình thù con
ngựa và hỏi:
- Có phải nó như thế này không
cô ?
- Ừ, chắc là như vậy.
- Trong xã mình có xử dụng nó
lần nào chưa cô?
- Có một lần phục kích ở Ngã Ba
Lộ Chùa. Chùa Tuyên Linh đường vô Cầu Mống chớ không phải Chùa Oai Linh ở sau
đồng.
- Kết quả ra sao cô?
- Bắn không nổ. Dưới Giồng
Lượng có Tổng Y. Trên Cầu Mống có Tổng Cường là dượng rể của cháu. Nhưng Tổng Y
có lính, thường đi ruồng miệt Cải Bần có khi thọc tới trên ranh Minh Đức, còn
Tổng Cường thì nhát lắm không dám ra khỏi chợ Cầu Mống. Trận đó du kích bị lính
rượt chạy suýt chết. Mất một cây, còn một cây, y đem về nhận luôn xuống đìa tới
bây giờ không nhắc tới nữa.
Bạn đọc muốn biết món vũ
khí “thần thông” này ư? Đó là một cái ống trúm bằng sắt to nhỏ
tùy sự sáng tạo. Ở trước đầu có hai cái chân chỏi nó ngước họng lên. Miệng nó
dồn loại đạn đặc biệt như bà Huyện ủy vừa mô tả. Thuốc nổ nhét sau đuôi. Cái
kim hỏa nện vào hột nổ bằng một sợi dây thun căng thẳng. Chỉ có thế. Chắc chắn
trên thế giới không có loại vũ khí nào đơn sơ hơn cây súng “Ngựa Trời” .
Vậy mà đánh cho Mỹ Ngụy những đòn xiên niển!!!
Vậy là xong con ngựa trời. Vừa
nghỉ dưỡng sức vừa đi sưu tầm tài liệu ở xã nhà, tôi nghĩ dần cái dàn bài cho
tiểu thuyết Đồng Khởi. Lúc bấy giờ trực thăng thường đổ chụp
phía bên Cù Lao Bảo, cho nên tôi ở Cù Lao Minh bên này cũng khá yên ổn. Một hôm
cô Hai bảo tôi:
- Cô cho cháu cái đề tài hay
lắm.
- Đề tài gì vậy cô?
- Bà Điên. Bả điên
nhưng nói toàn chuyện Cách Mạng mà bằng thơ lục bát chớ không nói chuyện như
mình. Ví dụ như: Ngày ngày bắt ốc hái rau, ngày mai ta sẽ lên lầu vinh
quang, hoặc là Bao giờ thằng ngốc làm vua, Tổng Y sẽ rụiTổng Cường
lên ngôi!
- Ngôi gì, cô?
- Đã bảo là bả điên mà ! Tổng Y
nghe câu đó cho lính tới bắt vô bót đập cho một trận nhưng về nhà vẫn đọc thơ
chửi rủa Tổng Y, và càng điên hơn trước.
Tôi thích lắm. Định bụng sẽ xây
dựng bà Điên thành nhân vật rất lý thú. Trong vở kịch “Lu Ba” của
Liên Xô mô tả Cách Mạng Tháng Mười, được Hà Nội cõng về dịch ra rồi mời đạo
diễn Liên Xô qua dạy, diễn triền miên ở Nhà Hát Tây, có một nhân vật khùng
khùng rất xuất sắc do kép Đào Mộng Long đóng hay cho đến đỗi không ai thay
được. Bây giờ Cách Mạng Đồng Khởi cũng có thua gì. Tôi đi tìm gặp bà Điên ngay.
Trước kia vào thời Pháp, cặp
hai bên rạch Tân Hương là hai con lộ. Dân chúng đi lại rất dễ dàng. Bây giờ lộ
bị đào xới rào rắp cắm bảng tử địa từng chặng một, không ai dám đi, chỉ để du
kích. Dân phải đi đường ở sau ruộng. Đó là những bờ ranh, được giải phóng gọi
là Lộ Mới, nhỏ hẹp bất tiện hơn lộ làng bội phần.
Từ nhà bà cụ tôi muốn đi chợ
Tân Hương phải qua nhà ngoại tôi. Rồi từ chợ băng đồng đến nhà bà Điên.
Muốn đến chợ phải đi qua một
chiếc cầu sắt. Tuy không có xe hơi qua lại, nhưng chiếc cầu rất chắc chắn. Nhà
bà đề tài ở gần vườn Mù U của ông Cả Hóa, một điền chủ lớn trong làng, có người
con trai tên Nhì Ưu cùng đi học với cậu Bảy tôi ở trường Phú Xuân ngoài Huế.
Lúc nhỏ tôi và cậu Tám tôi thường đến đây hớt cá lia thia về nuôi. Cá ở vườn
này nổi tiếng là loại cá chiến, đá bền và rất dữ.
Bây giờ trở lại đây, tôi không
còn thấy ngôi nhà xưa vĩ đại núp trong khu vườn sầm uất nữa. Đây là một nhà
giàu xưa, tiền đầy cả rương xe, nhưng không xài phí, chỉ có đám con phá của.
Gia đình này bỏ lên thành, không tham gia kháng chiến. Ngôi nhà cũng bị phá
hoại thời kháng Pháp và giải phóng cạp sạch sau Đồng Khởi như nhà ngoại tôi.
Còn vườn Mù U thì mạnh ai nấy đốn nên không còn một gốc. Tôi gặp bà Điên ở
trong một ngôi chòi lụp xụp của con dâu bà. Bà không còn ra người. Tôi muốn
khai thác ngay điểm đó, nên vô đề ngay:
- Nghe nói bà cụ bị lính Tổng Y
đánh bệnh nặng…
Người con dâu không đợi tôi dứt
lời, nói ngay:
- Ổng đâu có đánh đập gì. Ổng
nghe đồn má tôi mắc bịnh như vậy, ông cho lính bắt đem về hốt thuốc cho uống,
rước thầy pháp ếm đối, nhưng không hết. Ổng còn cho mấy trăm về nhà chạy thầy.
Tôi bị hẫng, nên lái sang
chuyện khác:
- Bà cụ bịnh từ hồi nào vậy
chị?
- Hồi trước 45 lận mà . Nhưng
hồi đó còn nhẹ , rồi nặng lần lần. Hồi Đồng Khởi mình đánh trống đánh mõ suốt
đêm ngày nên má tôi mất trí luôn đó chớ đâu có ai đánh đập làm chi một bà già.
Thế là tôi bị cụt hứng, như cái
đề tài ngựa trời.
Một buổi chiều tôi ngồi ở mé
sông xem địa thế phòng khi có chụp dù thì dông ngả nào cho tiện. Tôi tưởng ông
cán Mùa Thu về thì được săn đón hoan hô ngất trời, nhưng không có ma nào thèm
ngó tới. Nếu không có gia đình nội, ngoại tôi thì tôi không biết nương tựa nơi
ai.
Thình tinh đò máy đỗ lại. Đây
là con đò không bến. Chỗ nào có khách lên khách xuống thì nó tắp vào rồi khách
cứ chịu khó lội, chớ không có chỗ nào nhất định.
Bỗng một tiếng kêu:
- Triết.
Tôi nhìn xuống mũi đò nơi khách
đang lúm xúm chuẩn bị vọt lên, thấy một người tóc bạc. Phải mất mấy giây đồng
hồ tôi mới nhận ra cậu Bảy tôi. Tôi như bị ngọng, kêu lên mà không rõ tiếng.
Như một giấc chiêm bao. Trên mười năm xa cách, kể từ hòa bình lập lại tới nay.
Tôi đi theo cậu về nhà ngoại.
- Sao cậu biết con về ?
- Dì Năm lên Sài Gòn gọi cậu.
Tôi buột miệng hỏi liền.
- Sao cậu không ở nhà mà đi lên
trển?
- Chính ngoại cũng không muốn
cậu ở nhà.
Tôi đã biết ngay tại sao, nên
không đá động tới việc đó nữa. Cậu hận vì cái chết của đứa em trai. Hận kháng
chiến, hận đủ thứ. Không người kháng chiến nào, dù còn theo đuổi hay bỏ về thành,
mà không hận kháng chiến. Năm 1950 lúc ở miền Tây, tôi cũng đã chèo xuồng ra
thành rồi. Rủi thay gặp thằng bạn chí thân chận lại nghe nó than một câu: “Mày
đi rồi tao chơi với ai ?” mà trở lại. Cậu tôi là một trí thức lại càng
hận kháng chiến tràn đầy. Ngoại tôi gặp hai cậu cháu tôi cùng một lúc thì mừng
lắm, làm thịt cả một con vịt. Ngoại tôi rưng rưng nước mắt, bảo:
- Cậu cháu có nói gì thì nói
cho hết đêm nay đi, khuya xuống đò trở lên trển.
Tôi biết ngoại tôi càng hận về
cái chết của cậu Tám tôi. Ngồi trước mặt người cậu thân yêu, tôi như thấy lại
tôi hai chục năm trước, một học sinh thành tập tễnh đi theo Cách Mạng với tất
cả lòng yêu nước hồn nhiên như trong một bài hát của dân tộc Pháp..
Mère Patrie renaîtra! (Tổ Quốc sẽ tái sinh!)
Thiệt sung sướng và tự hào cho
người kháng chiến. Thời đó ai ở nhà là cảm thấy có tội với Tổ Quốc. Cậu tôi dắt
tôi đi cho tôi vào trường huấn luyện cán bộ Thanh Niên Cứu Quốc tỉnh lúc tôi
chưa thành niên. Rời trường đó, tôi xa cậu tôi như chim đủ lông cánh bay khắp trời.
Cậu hỏi.
- Cháu ra ngoài có gặp bà con
Bến Tre mình không?
- Có gặp đủ hết cậu à .
- Họ công tác có phấn khởi
không?
- Dạ được.
- Như ai kể cho cậu nghe để cậu
mừng.
Tôi đã nói láo về cái Miền Bắc
xã hội chủ nghĩa ôn dịch với biết bao nhiêu người tôi gặp trên đường từ R về
đến đây êm xuôi trót lọt, chỉ có lần bị một cậu giao liên ở Vàm Cỏ Đông chơi vô
bảng họng thôi. Bây giờ tôi có thể nào dối gạt cậu tôi? Tôi không có can đảm.
Hơn nữa cậu tôi không phải là người dễ nghe tuyên truyền. Chính cậu từng là Trưởng
Ban Tuyên Huấn Thanh Niên Cứu Quốc tỉnh thời anh Mạch Văn Tư làm Tỉnh Đoàn
Trưởng.
Tôi không nghĩ ngợi gì hết, bắt
đầu kể về ông Nguyễn Văn Huệ, tức ông Mười Huệ, tức ông Đốc Huệ ở Giồng Trôm
từng làm Chủ Tịch Tỉnh suốt chín năm. Tôi nói:
- Dân Nam Kỳ hi sinh không để
làm gì hết cậu à !
Cậu tôi ngồi điềm nhiên không
tỏ vẻ gì hết khi nghe câu chuyện của tôi.
—>Chương 4
- 4 -
Ở Miền Bắc tôi từng gặp nhiều
người Bến Tre trong đó có những chú bác từng lãnh đạo cơ quan đoàn thể ở tỉnh
nhà trong chín năm Nam Bộ Kháng Chiến như ông Mười tức bác Mười Huệ chủ tịch
tỉnh, ông Đỗ Phát Quan đại biểu Quốc Hội năm 46, người Bình Khánh; ông Nguyễn
Tẩu, Ty Trưởng Công An; ông Nguyễn Văn Kinh Tổng Thư Ký Ủy Ban; Phan Thêm, chủ
nhiệm Việt Minh; Nguyễn Thanh Thế, Giám Đốc trường tư thục Duy Minh; ông Tư
Minh, ủy viên huấn luyện Thanh Niên Cứu Quốc tỉnh v.v…
Trừ ông Phan Thêm là được Hà
Nội coi trọng. Ông này được cho làm Phó Ban Tổ Chức Trung ương dưới quyền Lê
Đức Thọ vì hắn không phải là dân Nam Kỳ !
Tôi xin nói thêm về những điều
mắt thấy tai nghe mà không một ai có thể tưởng tượng nổi. Ở trong Nam cứ cắm
đầu lạy “ơn Bác ơn Đảng” và bỏ vợ bỏ con nhảy xuống tàu ra Bắc
để:
Mười năm dồn lại một ngày
Là ngày tay mẹ cầm tay Bác Hồ!
(Thơ Xuân Vũ năm 1954 đăng trên
báo Văn Nghệ Hà Nội).
Khi ra đó vài tháng rồi, chàng
thanh niên tên Xuân Vũ này lại cũng mần thơ, nhưng không dám đăng báo.
Mười năm rõ mặt bác Hồ
Là con quái vật miệng hô mắt lồi.
Một trong những người Bến Tre
tôi kính phục và gần gũi nhất là ông Mười Huệ . Lúc bấy giờ có lẽ ông đã sáu
mươi, râu tóc bạc phơ, bệnh hoạn và bị hất hủi như con chó già. Xin lỗi ông
Mười, cháu xin nói thật, nói thẳng bằng một danh từ không mấy thanh cao. Bọn
lưu manh có thanh cao gì!. Nhưng đó là cảm nghĩ thật mỗi khi tôi gặp ông Mười. Tôi
hết biết nói gì. Ông Mười là Chủ Tịch Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chánh suốt chín
năm của tỉnh nhà . Lúc đó tôi chỉ là Thiếu Nhi Cứu Quốc nhưng mê kháng chiến vô
cùng vì tưởng là nước mình sẽ được như nước Pháp mà tôi đang học lịch sử ở
trường.
Vinh quang thay, những kẻ hi sinh cho Tổ Quốc…
Tình yêu thiêng liêng của Tổ Quốc…
Miền Bắc Việt Nam mà tôi đụng
vào đã thành một cái tổ Cò, mà con cò già bất hạnh nhất là ông
Mười. Ông được phong cho chức “Tổng Thư Ký Hội Việt Pháp Hữu Nghị” trụ
sở ở đường Lý Thường Kiệt gần ngã tư Phan Bội Châu. Cái hội này “quan
trọng” đến nỗi không có ai tới lui hết, không làm gì hết và cũng không
biết ai lập nó ra. Nếu có làm gì chăng nữa thì ở đâu làm không phải ông Mười.
Vì ông chỉ là Tổng Thư Ký thôi. Chủ Tịch hình như là Phạm Huy Thông một thạc sĩ
làm tay sai cho một trưởng ban tuyên huấn học chưa hết trung học để được yên
thân. Nhưng ông Mười cũng cứ ở đó như một loại ông Từ giữ chùa. Ông không ở nhà
chính mà lại ở trong cái ga-ra. Hai bác cháu tập kết sao mà giống nhau như hệt:
ở ga-ra. Tôi ở cách đó không xa, cũng trong một cái ga-ra nhưng cái của tôi thì
quá đỗi tồi tàn, dột nát và gần sát một cầu tiêu thùng. Tôi ở chung với Nguyễn
Quang Sáng, bây giờ là Tổng Thư Ký Hội Nhà Văn. Hằng ngày tôi đến Đài Phát
Thanh Tiếng Nói Việt Nam làm việc ở 54 Quán Sứ trước Viện Ung Thư, bên cạnh
Chùa Quán Sứ, thì đi ngang số 7 Phan Bội Châu. Đây là một cái quán hai tầng của
một gia đình người Tàu. Tầng dưới thì buôn bán, tầng trên gia đình cư ngụ và
cho mướn. Ông Mười vẫn thường đến đây uống trà, hoặc sáng hoặc chiều, không
thành cữ nhất định.
Cái quán này là nơi thân mến
của dân Nam Kỳ quốc. Phía bên kia đường là nhà máy nước đá của một bà tư sản
góa chồng rất đẹp. Đó là mục tiêu rửa mắt của khách ẩm trà trong quán này. Bà
tư sản hình như cũng bén lắm nên mỗi lần chúng tôi uống trà và nói chuyện râm
ran bên này thì bà ra đứng ở cửa bẹo hình bẹo dạng. Sau này có thằng bạn tôi
trẻ hơn bả có mười tuổi bị dính vô và bị kiểm thảo trần ai suýt tụt lon thiếu
tá.
Khi nào ngồi quán mà thấy tôi
đi ngang, ông Mười cũng ngoắc:
- Xuân Vũ, vô làm vài chung cho
ấm rồi đi làm, cháu !
Râu tóc ông Mười đã bạc phơ,
mắt không lúc nào rời cặp kiếng trắng, quần áo vải ta trắng bèo nhèo, chân mang
guốc vông mòn hết gót, tay không có đồng hồ, túi không có bút máy, không có gì
ráo trơn, ngoài tấm thân già bệnh hoạn. Tay trái của ông bị “chuột rút” đơ
đơ không cử động bình thường được nhưng khổ thay, ông lại không có tiêu chuẩn
vào Bệnh Viện Việt Xô . Cho nên rót nước châm trà, hay rót trà ra chung ông
Mười chỉ dùng một tay.
Ba hào một bình trà. Nói cho
ngay trà ở quán chị Hai không phải trà cau khô. Có lẽ chị ưu đãi tụi dân Nam Kỳ
này nên đem ra trà thiệt thì không rõ. Ở các quán cà chớn thì xác trà ngâm nước
cau khô phục vụ khách. Dân ghiền, lúc đờm sắp trào lên cổ thì thứ gì chát chát
là nuốt càn, sá gì nước cau khô ? Một bình trà năm, sáu mạng uống như quỉ sứ cả
giờ đồng hồ, ba bốn“phuých” nước sôi. Chị Hai vẫn vui vẻ không sốt
ruột như các chủ quán khác. Do đó dân Nam Kỳ chúng tôi coi đây như là trụ sở
của mình. Có chuyện gì vui buồn cũng ra đó nói cho nhau nghe. Còn ông Mười thì
coi đó như văn phòng thứ hai của Hội Việt Pháp Hữu Nghị vậy. Lắm khi bọn tôi
kiếm được gói trà Chính Xuân, Ba Đình, Hồng Đào, nhớ ông Mười thì cũng đi thỉnh
ông đến chủ tọa ở quán chị Hai.
Có lần Phan Vân, nhạc sĩ của
đài phát thanh, một chàng thanh niên tuấn tú khôi ngô của Sài Thành không biết
theo ai mà ra Khu 8 của Trần Văn Trà rồi lọt xuống miền Tây ở chung với tôi
trong phòng chính trị. Hắn làm nhạc, tôi làm lời, lấy làm tâm đắc lắm. Thỉnh
thoảng hai đứa lén ra rừng, hắn sô-lô cho tôi nghe bản “Những Cánh Hoa Đời” của
hắn làm ở Sài Gòn.
- Ê, mày Xuân Vũ, ngã mặn vậy
đủ chưa? Mai mốt ra đồng tao hát bài“Tiếng Còi Trong Sương Đêm” Tango
Melodic của Lê Trực cho mày rụng rún.
Phan Vân cộng tác chung với tôi
ở Phòng Chính Trị Khu 9 mấy tháng rồi cùng về Cần Thơ vài năm. Hắn là người chỉ
hợp với đường phố, những vũ trường và sân khấu nhưng không hiểu sao hắn lại đi
kháng chiến. Tôi với hắn thường hợp tác đi lao động sản xuất để chui vô chòi vịt
làm nhạc. Có lần cơ quan được lệnh sản xuất thêm để lấy tiền cứu trợ miền Đông
bị bão lụt. Tôi và hắn đi cắm câu ở gần Kinh Xáng Cụt. Hai đứa tìm nơi ngủ cho
đã rồi sáng ngày thức dậy mua cá của nông dân về nộp cho cơ quan bán lấy tiền
cứu trợ. Và được chấm điểm cao.
Trong số bản nhạc của Phan
Vân-Xuân Vũ có một bài được giải nhất Giải Cửu Long năm 1950. Ngoài ra còn một
bài thơ của tôi được hắn phổ nhạc và rất được phổ biến trong hai khu 8 và khu 9
lúc bấy giờ.
Em lớn lên
Em ăn rau và cải
Trồng trên đống tro tàn
Trên nền nhà rụi cháy
Hàng cột ngã thành than.
Cơm em ăn mỗi ngày
Đều có dính máu Tây
Vì mùa khô mùa nước
Tây phơi xác ruộng này.
Nhà em Tây nó đốt
Em ra ngủ ngoài vườn
Khác gì anh chiến sĩ
Quen lạnh lẽo gió sương.
Bây giờ em còn bé
Em gắng tập súng cây
Ngày mai em sẽ lớn
Cầm súng thiệt đánh Tây.
Em lớn lên trong kháng chiến.
(1947)
Ra Hà Nội, nhớ bà vợ lai Nhựt
Bổn đẹp quá trời, Phan Vân phát khùng lên. Một hôm hắn vô đại Văn Phòng Ban
Giám Đốc Đài Phát Thanh do ông Huỳnh Văn Tiểng làm Phó Giám Đốc, sừng sộ:
- Ê! Anh Tư, anh cho tôi về Nam
đi! Tôi chán quá rồi.
- Đi sao được mà đi đồng chí !
Lúc đó tôi vừa bị kiểm thảo
xong về vụ lên Ủy Ban Quốc Tế xin về Nam.
Phan Vân liền rút con dao rọc
giấy ở trên bàn, vung lên. Huỳnh Văn Tiếng vốn phục phịch to con nên không chạy
kịp, cũng không la. Nhưng Phan Vân không chơi anh Tư mà cởi nút áo sơ-mi tay
manchette, đưa trước mặt anh Tư, đâm một phát, rút dao ra ném trên bàn rồi để
cho máu nhỏ giọt xuống gạch và bảo:
- Anh coi nè!
Huỳnh Văn Tiểng ớn quá nhưng
lúng túng không biết phải đối phó cách nào còn Phan Vân thì trợn mắt nói tiếp:
- Vợ các anh là l… người
ta còn vợ tôi là 1… bò hả?
- Đừng nói vậy đồng chí… Cách
Mạng…
Phan Vân không nói gì thêm bỏ
đi xuống và cuốc một mạch tới quán chị Hai, cánh tay còn ròng ròng máu. Tôi là
người thân nhất của Phan Vân ở đây nên hỏi ngay. Phan Vân kể lại câu chuyện đã
xảy ra. Có mặt ông Mười ở đó. ông khuyên can:
- Cháu không nên làm vậy, chẳng
có ích gì.
Ông luôn luôn tỏ ra là bậc cha
chú và là một trí thức đã từng trải trong cuộc sống với tụi Hà Nội. Không bao
giờ tôi nghe ông nói một câu bất mãn hoặc góp vào những chuyện bất mãn. Nhưng
tôi biết ông chán ngán, ê ẩm vô cùng. Đã lỡ tay trót đã nhúng chàm. Dại rồi còn
biết khôn làm sao đây. Bô bô cái mồm sẽ bị cắt phiếu.
Những người cùng làm đốc học
trường quận với ông, thấp hơn ông ở lại đều đã vinh thăng như ông Đốc Ninh ở
Thanh Phú, ông Đốc Trinh ở Ba Tri, ông Đốc Chỉ ở Mỏ Cày. Ông Mười là một bậc
trí thức đâu phải là có “nhiều lắm” trong kháng chiến và trong
hàng ngũ Cách Mạng. Mà chúng nó khinh miệt bỏ bê làm vậy?
Một hôm ông Mười có ý tốt đối
với tôi. Ông có đứa con gái tên là Vân Thanh rất duyên dáng mặn mòi, bọn Nam Kỳ
gấm ghé nhưng không đứa nào dám vì ông nghiêm khắc lắm. Hơn thế nữa, ông đã rào
trước:
- Con nhỏ còn đang học trường
Miền Nam. Nó còn nhỏ !
Nhưng ông Mười có trông thấy
chỗ khác và nhờ người ta làm mối cho thằng cháu đồng hương. Do đó mà tôi có dịp
đến căn nhà “Việt Pháp Hữu Nghị” của ông. Đó là cái ga-ra bên
cạnh cái villa nhỏ mà người ta căng tấm bảng ở cửa ngỏ “Association
Vietnam-France”. Trong cái ga-ra của ông có một cái giường nát và cái bếp ở xó
hóc lạnh tanh. Tường cũ loang lỗ, gạch dưới nền mòn khuyết lồi lên những gân xi
măng.
Ngậm ngùi, chua xót quá đỗi,
tôi cũng tạm ngồi uống trà và hỏi thăm ông:
- Bác ăn cơm ở đâu bác Mười?
- Đằng hợp tác xã công nhân xe
lửa.
Tôi cũng đã từng ăn ở đó nhưng
đông quá , món ăn kém, không thể ăn được nên chuồn đi chỗ khác. Bạn ơi! Bạn
đừng tưởng có tiền là xách đít đi đâu ăn cũng được nghe. Muốn ghi tên vào Hợp tác
xã bạn phải được xét lý lịch như trước khi vô đảng đấy.
- Chen lấn lãnh cơm có bữa muốn
rách áo cháu à !
Đó là câu nói nặng nề nhất về
chế độ mà tôi được nghe từ miệng ông Mười.
- Rồi bác ăn ở đâu?
- Bác nhờ con Hai chủ quán nấu.
Con nó đem lại cho bác ở đằng đó.
Tôi nhìn cánh tay yếu của ông
mà ái ngại vô cùng. Già vậy mà ở một mình, rủi đau ốm bất thường rồi lấy ai mà
cậy nhờ? Đọc được ý nghĩ đó của tôi ông nói:
- Bác có thằng cháu y tá. Lâu
lâu nó có ghé qua.
Tôi tưởng rằng nhà của ông Tổng
Thư Ký Hội Việt Pháp khá hơn nhà tôi, nhưng khi ngó lên nóc thấy một lỗ lớn,
tôi chưa kịp nói gì thì ông cắt nghĩa:
- Bác đã dời chiếc giường tránh
chỗ dột. Mưa nho nhỏ không sao. Còn mưa lớn thì bác mở cửa lên nhà trên ngồi
chờ hết mưa thì xuống.
Tôi không dám hỏi tới: “Sao
bác không ở trên nhà trên.” vì sợ câu trả lời sẽ làm đau lòng cả bác
lẫn cháu, nên thôi, bèn nói lảng:
- Nhà của cháu hễ trời mưa thì
cháu với thằng Sáng ngồi trùm ni-lông chong ngóc.
- Kệ nó cháu, ráng ráng thử
coi.
Ý bác nói là ráng sống để lết
về xứ. Tôi tìm hiểu thử xem những người trụ cột của tỉnh Bến Tre có ai được
trọng dụng không?
- Chú Hai Sách bây giờ ở đâu
bác?
Hai Sách là Trưởng Ty Công An
sau cùng của Bến Tre.
- Nó làm Phó Ty Thái Bình. Mà
hình như là Phó Ty Thương Binh thì phải.
- Còn chú Mười Kinh?
- Nó làm gì ở Bộ Nội Vụ. Chết
rồi, cháu không hay sao? Nó đi đón Việt kiều ở Tân Đảo về, trật chân trên tàu
rơi xuống biển. Không hiểu sao tại Cảng Hải Phòng mà không vớt được?
- Còn bác Nguyễn Tẩu?
- Làm cái gì ở Sở Nhà Cửa. Ôi
thôi tản lạc hết cháu ơi! Bây giờ cháu đang viết cái gì?
- Dạ đi cà nhỏng chớ có viết
được cái gì đâu bác. Một năm ba bài bút ký đăng báo thôi.
- Chuyện kháng chiến mình hay
quá không viết được sao?
- Dạ không ..
- Tại sao vậy cháu?
- Dạ không hiểu tại sao nữa. Cứ
ngồi lại thì nhợn rồi buông bút bỏ đi đạp xe chạy rong ngoài đường bác à !
- Vừa rồi thương binh Nam Bộ
làm loạn ở tỉnh Thái Bình không biết thằng Sách có đối phó nổi không?
Vâng, chuyện kháng chiến chống
Pháp đẹp quá mà không ai muốn nhắc lại. Vì nhắc lại chỉ thêm đau lòng. Tôi nhớ
hồi còn ở tỉnh nhà, cán bộ được coi như thần thánh, kháng chiến chống Pháp là
một vinh quang. Thanh niên không ai ở nhà. Không bộ đội thì cán bộ, không cán
bộ này cũng cán bộ kia, đến đỗi con cháu Hội Đồng, Cai Tổng cũng bỏ nhà đi.
Không đi là có tội. Còn bây giờ thì ai cũng thấy “giá đừng đi”!
Thời đó ông Mười cũng đã trên
năm mươi. Ông là Chủ Tịch Tỉnh, không có Phó Chủ Tịch và cũng không có ai thay
thế nếu ông hi sinh. Ông mặc bộ đồ lụa Ba Tri cổ đứng đi dép cao su, đội nón
mây rộng vành, loại nón của người Tàu, ông đi bộ khi dời cơ quan, tự mang ba lô
lấy, nếu trời mưa thì ông chống gậy. Thanh Niên Cứu Quốc của anh Mạch Văn Tư,
Phụ Nữ Cứu Quốc của chị Ba Định, Nhân Dân Cứu Quốc của ông Trọng Già đều bu
chung quanh Ủy Ban Tỉnh để dễ bề ăn ké máy đánh chữ, pơ-luya hoặc nhờ nhỏi ghe
xuồng cùng các thứ khác.
Hồi đó chị Ba Định cũng khờ ịt
chớ đâu có trí óc gì bao nhiêu, nhờ ông Mười dạy dỗ cho nên được làm Đoàn
Trưởng Phụ Nữ Cứu Quốc tỉnh. Chỉ đâu có nói chuyện được trước đám đông. Hễ có
mít tinh thì chị Hồng Yến vợ anh Phan Minh Triều viết diễn văn cho chỉ đọc vậy
mà còn đọc trật lất: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chỉ đọc
thành Việt Nam Dân Chủ Cộng Hào, còn “thân ái chào quí đồng chí”
thì chỉ rặn ra là “thâm ấy chà quí đồng chí“.
Thấy cậu tôi ngồi nghe mà sắc
mặt không vui nên tôi không muốn kể thêm. Cậu thở dài, chê trách Cách Mạng thì
có lẽ cậu không nỡ. Vì cuộc kháng chiến chống Pháp tự nó là một cuộc chiến đấu
đẹp đẽ và cao quí. Nào ai có biết đảng là gì. Cho nên cứ nhắm mắt đi theo, đến
khi mở mắt ra thì đi đã quá sâu, không có can đảm trở lại nữa.
Cậu ngồi đó, có lẽ trong đầu
cậu hiện lên những nẻo đường kháng chiến từ Cù Lao Minh sang Cù Lao Bảo, Sóc
Sải, Thành Triệu, bang Tra, Ba Vát, Mỏ Cày, Phước Hiệp, Định Thủy, Bình Khánh,
An Định, Tân Trung, Minh Đức, Hương Mỹ, Thành Phú, Giồng Luông, Giồng ớt, Giồng
Bãi, An Qui, Thành Phong, Cồn Chim, Cồn Diệp…
Thanh niên trai tráng tới đâu,
ông Mười đi tới đó. Chữ ký của ông chân phương có những vòng bán nguyệt bao bọc
chung quanh như mây khói.
Mà mây khói thật, như cuộc đời
của ông. Đi với Pháp quyền cao lộc cả xe hơi nhà lầu, lại bỏ đi theo “Cách
Mạng” để được phát cho cái ga-ra nát.
Đó là ông Mười Huệ ở Miền
Bắc. “Giải Phóng” MiềnNam rồi, ông cựu Chủ Tịch Tỉnh từ Hà Nội
trở về làng, về tỉnh nhà , không phải với chiếc áo gấm như những ông Nghè bái
tổ vinh qui mà với chiếc áo bà ba bạc màu, gậy chống đi từng bước, bàn tay
chuột rút treo trên cổ như một mối hận chưa trả xong. Ông lần về tận quê .
Không còn gì, ngoài một quả núi tro trong lòng mà cách mạng đã dựng lên cho ông
từ ngày ra Bắc. Không có gì ngoài dăm ba nụ cười gượng mà bọn tỉnh ủy – một lũ
con nít khi ông đã là lãnh tụ tối cao của tỉnh này – dành cho ông như cái hạnh phúc
hồi hương tưởng không bao giờ có.
Về tới xứ hôm trước, hôm sau
ông ra chợ Mỹ Lồng ngồi chồm hổm tự thường cho mình, cũng còn có nghĩa là cám
ơn cách mạng bằng một tô cháo lòng heo. Đúng là cháo lòng heo ! Nhưng thôi, so
với hằng trăm người Bến Tre khác đã nằm lại nghĩa trang Mai Dịch, Văn Điển, thì
ông Mười còn sướng hơn nhiều.
Một ông chủ tịch tỉnh đi tập
kết về ăn cháo lòng ở tại nơi mình từng làm đốc học. Trí thức bị hạ xuống làm
dân phu phen kéo xe, quét chợ, còn những tên kéo xe quét chợ, thợ hồ, chăn trâu
chăn vịt, cạo mủ cao su thì lại đóng vai trò chủ tịch quận, chủ tịch tỉnh thậm
chí chủ tịch nước. Ông Mười về được xứ chắc là thỏa nguyện rồi. Vì lúc ở ngoài
Bắc ông có ước mong gì nữa đâu. Nhưng bi kịch của ông Mười không dừng lại ở đó.
Màn cuối còn thê thảm hơn
nhiều.
Số là ông có một chàng rể tên
là Phát, có lẽ tên Tây nên gọi là Phát Nề (René). Trong kháng chiến Phát Nê đã
làm đến đại đội phó. Có lẽ vì thành phần không cơ bản nên không được tiếp tục
cuộc đời binh nghiệp, bị lột áo lính ngay khi ra Bắc và làm một việc gì không
khá lắm ở Bộ Công Nghiệp. Thỉnh thoảng tôi có gặp anh ta ăn mặc đỏm dáng phóng
xe đạp Bờ Rô đến thăm ông già vợ. Khi về Nam, con trai của Phát Nê đã lớn và
làm tới đại úy Hải Quân (Ngụy). Phát Nê tỏ ra mình rặc với Cách Mạng nên về Bến
Tre gặp dòng họ thì kênh mặt như một ông Nghè đỏ. Ông đại úy con trai của Phát
Nê đang chuẩn bị cưới vợ, con gái của một dân biểu hay tư sản gì đó của tỉnh
nhà. Phát Nề về tới là “ách” lại cái rụp. Không có “hòa
hợp hòa giải” gì với thằng con đại úy Ngụy cả. .
Thằng bé mang dòng máu “Ngụy”
không thèm cãi lập trường với ông bố giải phóng mà vào buồng khóa trái bắn súng
lục vào đầu. Kết quả như thế nào cho ngoại nó, các dì, các cô nó và cả gia đình
bên vợ nó, nhất là đối với vợ sắp cưới của nó, ai cũng có thể đoán ra.
Nhưng đối với mẹ ruột của nó,
người đã nuôi nó, cho nó ăn học thành tài, trong lúc bố nó cà nhỏng xây dựng xã
hội chủ nghĩa Bắc Kỳ rỡm, chắc khó ai đoán được.
Bà vợ Phát Nê điên. Bà làm sao
đẻ được nữa mà không điên. Bà đi lang thang ngoài chợ kêu tên con suốt ngày. Bà
đã trở thành một người mất trí sau phát súng của thằng con trai duy nhất. Còn
ông Mười sau cái tai nạn trời giáng đó, ông càng rủ xuống. Và qua đời.
—>Chương 5
- 5 -
Đêm hôm tôi gặp lại cậu tôi có
lẽ là một trong những đêm dài nhất đời tôi. Tôi đã kể cho cậu tôi nghe tất cả
những gì tôi đã SỐNG ở Hà Nội trong vòng mười năm.
Xin mời bạn đọc quyển Biển
Lửa và Núi Tro tôi đã viết, trong đó tôi mô tả tinh
thần kháng chiến giành độc lập như một biển lửa và cái biển lửa đó trở thành
một quả núi tro trong lòng dân Nam Kỳ và toàn dân Việt Nam.
Cậu tôi nằm nghe, không hỏi
nhiều, chỉ thở dài. Mãi đến khuya, tôi mới hỏi cậu:
- Cậu biết anh Mạch Văn Tư bây
giờ ở đâu không?
- Cậu nghe nói ảnh lên Sài Gòn.
- Hèn chi cháu không gặp ảnh ở
ngoài.
- Một vài bạn quen của cậu có
cho biết lúc sắp chuyển quân ra Bắc, các ông Hoàng Xuân Nhị, Hà Huy Giáp có đến
gặp ảnh ở tại nhà thuyết phục ảnh đi tập kết, nhưng ảnh nói:“Nhiệm vụ tôi
với Tổ Quốc đến đây là đủ. Bây giờ tôi phải làm trọng trách của tôi đối với gia
đình tôi.” Ảnh nhất định về Sài Gòn.
- Có chuyện đó nữa sao cậu?
Cháu thật không ngờ.
- Lúc kháng chiến cháu còn nhỏ,
cháu không hiểu được chuyện nọ chuyện kia bên trong hoặc đằng sau lưng Cách
Mạng. Cậu biết hết nhưng cũng đành im chớ làm gì được. Đối với cậu, họ cũng lôi
kéo xô đẩy dữ lắm. Cậu là người giữ đạo Công Giáo thì có bao giờ vô đảng được.
Và cậu có biết đảng là cái gì.
- Còn anh Tư?
- Ảnh không có đạo, nhưng ảnh
là người cứng đầu. Mấy ông Phan Thêm, Bảy Khánh là bí thư, phó bí thư tỉnh ủy
hồi đó muốn ảnh vô đảng để gây ảnh hưởng trong giới trí thức trẻ đi theo kháng
chiến. Cháu biết hồi kháng chiến chống Pháp, trí thức tỉnh mình đi theo kháng
chiến đông lắm. Trước nhất là ông Đốc Thỉnh, kế đó là ông Đốc Huệ, rồi giáo sư
Nghĩa thầy của cháu. Những người có bằng Tú Tài khá đông. Còn giới thầy giáo
thì có thầy Hữu, thầy Ngọc, thầy Viễn, thầy Báu, thầy Hậu.
- Có chị Ba Định nữa chớ!
- Chị Ba là Phụ Nữ xã Lương
Quới bên Bảo vì dễ bảo nên được mấy ông tỉnh ủy nâng đỡ lên làm đoàn trưởng Phụ
Nữ tỉnh, coi như tay mặt tay trái của tỉnh ủy.
Đột nhiên cậu hỏi tôi.
- Cháu nhớ Bùi Ngọc Nghi không?
- Dạ nhớ chớ. Ảnh là Phó của
anh Tư.
- Họ thấy không thuyết phục
được anh Tư nên gởi ảnh lên Miền. Lên Miền, ảnh gần mấy ông lớn ở Khu, nhưng
ảnh vẫn không chịu vô đảng. Cho nên ảnh bị đưa luôn lên xứ đoàn làm ủy viên
thường vụ kiêm trưởng ban tuyên huấn Thanh Niên Cứu Quốc Nam Bộ. Cháu nhớ tập
san Lửa Hồng không? Đó là do tay của ảnh làm. Ảnh có tài tuyên
truyền và huấn luyện, nên người ta muốn ảnh vô đảng. Có vậy thôi.
- Hồi ảnh mở trại huấn luyện
Thanh Niên Cứu Quốc ở Cồn Chim…
- Cháu không nhắc là cậu quên
rồi. Ảnh có bất mãn bỏ chức một lúc qua nằm ở Tiệm Tôm bên Ba Tri. Tỉnh ủy
hoảng hồn cho người đi triệu ảnh về. Vì sợ ảnh theo Tây. Ảnh mới về mở trại
huấn luyện đó. Một tay ảnh đào tạo cả ngàn cán bộ Thanh Niên Cứu Quốc cho tỉnh
mình và cho tám tỉnh miền Trung. Ảnh hưởng của ảnh trong giới trẻ lớn lắm, nên
tỉnh ủy vừa dùng ảnh lại vừa sợ ảnh. Nhưng ảnh đâu có tranh giành cái gì với
ai. Ảnh chỉ huấn luyện cho thanh niên lòng yêu nước và lòng nhân đạo thôi. Cháu
có còn nhớ hình mấy nhà văn treo ở giảng đường không?
Tôi nhanh nhảu đáp.
- Dạ Gorki, Barbusse và
Rolland.
Cậu tôi tiếp:
- Tỉnh ủy muốn đưa Bùi Ngọc
Nghi rủ rỉ để nhét “Chương trình cơ sở vấn đáp” của đảng do
Trường Sinh soạn vào trại huấn luyện của ảnh (Mạch Văn Tư) nhưng ảnh cự tuyệt
thẳng thừng. Do đó sau ba lớp đào tạo cán bộ cho tỉnh, ảnh định đề nghị biến nó
thành trường huấn luyện cho Miền. Vị trí Cồn Chim rất thuận lợi về địa dư lẫn
thiên nhiên. Nhưng vì sự cự tuyệt của ảnh mà ảnh bị đưa lên Miền. Lên đó xong
ảnh lại xuống Trà Vinh tiếp tục mở lớp…
Bao nhiêu cái sự đời ở phía hậu
trường kháng chiến, mãi tới bây giờ tôi mới được cậu tôi bảo cho nghe. Cậu
tiếp:
- Sau khi ảnh lên Miền, tỉnh ủy
đưa Bùi Ngọc Nghi sang thay thế. Nghi là một thanh niên nhưng tâm hồn cằn cỗi,
kiến thức ít ỏi nên không làm được việc. Tỉnh ủy rút Nghi về cho anh Cao Thái
Tôn sang. Anh Tôn là một thanh niên vườn, lại là một ông cụ non, chỉ được cái
tính dễ bảo như bọn Lê Hoài Đôn, Xuân Ôn, đệ tử của Trường Sinh.
Tôi nói.
- Cái thời đó Văn Phòng đóng
chết ở Bình Khánh và anh Tôn ra tiệm thuốc cao đơn hoàn tán ở chợ An Định để
làm quỹ tự túc cho Thanh Niên Cứu Quốc. Hai Quang bây giờ là bí thư tỉnh ủy,
hồi đó…
- Hồi đó chỉ là cán bộ của cậu
thôi. Ảnh cũng học lớp của anh Tư.
Khuya hôm đó, tôi cầm đuốc đưa
cậu tôi xuống bến đi trở lên Sài Gòn. Tôi buông cây đuốc xuống đất vì không
muốn ánh lửa soi thấu giọt nước mắt chia ly. Qua giọng nói, tôi đoán hình như
cậu tôi khóc. Cậu nghẹn ngào:
- Cháu cẩn thận nghe. Bom đạn
bây giờ không phải như thời trước. Thỉnh thoảng về thăm ngoại dùm cậu.
- Dạ.
- Cậu không muốn lên Sài Gòn,
nhưng ngoại không muốn cậu ở đây. Làng này bây giờ cậu thấy là của ai đâu không
còn là của cậu. Nếu không có ngoại ở đây, cậu sẽ không bao giờ về nhà. Cậu muốn
ngoại lên Sài Gòn quách cho rồi, nhưng cậu chắc chắn ngoại không đời nào chịu
rời nơi đây. Đất đai mồ mả ông bà ở đây, bỏ đi sao được.
Tiếng tù-và đò máy rúc vang
tiễn chân cậu tôi và tôi. Hai cậu cháu trước kia cùng một đường. Bây giờ đã
sang ngã rẽ. Tôi nhìn theo bóng con đò biến dần giữa bờ rạch rậm ri hoang dại.
Không biết suy nghĩ gì, cảm xúc ra sao. Cho đến khi tiếng máy đã tắt hẳn thì
tôi mới đứng đậy. Cây đuốc đã tắt tự lúc nào, bó lá dừa nằm trơ trên mặt đất,
một mớ tro bên cạnh như chính nấm mồ của nó. Đó là hình ảnh của hai mùa kháng
chiến. Lạ lùng thay cái cuộc kháng chiến này. Tôi sực nhớ lời Sơn Nam lúc hai
đứa gặp nhau ở Chắc Băng:
- Mày có bao giờ thấy Cách Mạng
lạ lùng như vầy không? Khi kháng chiến thì đồng cam cộng khổ, lúc Hòa Bình thì
tên này trói tên kia quăng vô chuồng cọp rồi chạy đi nhậu nhẹt nhìn đồng chí
mình bị cọp phanh thây.
Tôi quay vào nhà. Ngoại tôi
đang đứng ở giữa sân như dõi theo cuộc chia ly của hai thế hệ. Có lẽ ngoại cũng
đã khóc như cậu tôi và tôi. Tôi muốn nói câu gì nhưng không nói được. Tuy ngoại
không nói nhưng tôi đoán ra nỗi lòng của ngoại. Ngoại không muốn cậu tôi ở lại
quê.
- Thà nó đi cho khuất mắt,
ngoại khỏi phải nhớ cậu Tám con.
Hoặc:
- Cuộc kháng chiến này là một
sự phản bội. Nuôi dưỡng nó để rồi nó trở lại hại mình, giống như một thứ chó
điên cắn cả chủ nhà.
Tôi hiểu mối hận trong lòng
ngoại tôi và của cả gia đình ngoại tôi nữa. Tôi cũng hận tràn lòng nhưng không
thể nói gì. Nói theo ngoại thì đụng Cách Mạng, mà đụng Cách Mạng thì sẽ không
toàn mạng. Còn nói theo lập trường thì tôi không thể nào. Cái lập trường đó tôi
đã từng lê nó tới bờ sông Bến Hải năm 1960, suýt tuột nó ra vứt lại bờ Bắc
trước khi lội về Nam rồi. Bây giờ lôi nó về đến đây, quả thật nó không còn đầy
được nửa túi quần, thì việc trút nó đi không khó.
Tôi đi vào nhà. Cái ảnh cậu Tám
tôi trên bàn thờ vẫn còn đó. Đôi mắt buồn thảm như trách móc như nhớ nhung
thằng cháu, cứ dau dáu nhìn tôi. Tôi thấy đau buốt tim gan. Từ ngày về, tôi vẫn
chưa có dịp thăm qua mảnh vườn thần tiên của tuổi ấu thơ, có thể nói là góc
trời thơ mộng của tôi. Ao nuôi cá, mương vũng, tre trúc, dừa đủ loại, có cả dừa
Tân quan, mận ổi xoài cam quít mảng cầu, khế, cau, chuối, mít, không thiếu một
thứ cây ăn trái nào, một khu vườn sum xuê xanh tươi quanh năm, tôi có thể chạy
chơi leo trèo hái trái bắt chim, câu cá, tát cá bất cứ lúc nào.
Vậy mà bây giờ không còn gì
hết. Không còn gì hết. Vì đạn bom tàn phá và không có bàn tay săn sóc, chỉ có
bàn tay phá phách. Nền nhà xưa của ngoại tôi không tìm thấy nữa. Nền nhà đồ sộ
vậy mà không còn dấu vết gì thì đủ biết sự tàn phá đến mức nào. Cây cối chết đi
thì còn có thể hiểu được nhưng đến mương vũng cũng không còn ở chỗ cũ. Một bàn
tay nào đã lấp đã đời đã hủy diệt tất cả. Tôi như lạc lối vào một mảnh vườn xa
lạ. Đâu rồi cây khế ngọt ở mé mương mà tôi thường nhặt những trái rụng ăn như
những quả ngọt của tiên ban? Đâu rồi cây mận xanh trái có núm ăn giống như trái
lý ngoại tôi trồng lúc tôi giáp thôi nôi? Đâu rồi cây đào nhánh oằn những trái
hồng tươi như những quả tim không bao giờ rụng. Nằm dưới gốc ngó lên tưởng như
đào tiên của Ngọc Hoàng bị Tôn Hành Giả hái trộm thuở nào.
Gần dấu đạn cà-nông kia có lẽ
là gốc ổi bát ngoạt già ruột đỏ như mặt trời, lâu lâu mới có một trái nhưng
ngoại không đốn vì đó là cây ổi lúc còn sanh tiền ông ngoại xin giống ở đâu về
trồng.
Ở dọc mé mương ranh còn có mấy
gốc dừa “heo cạ”, loại dừa thấp lùn, người ngồi có thể bẻ được, con
heo đi ngang đụng buồng dừa, nước ngọt như dừa xiêm. Tận cuối vườn có cây dừa
Tân Quan già cao chót vót nhưng rất sai trái. Vỏ nó nhai ngọt như nước mía. Cậu
Tám tôi không thể móc tới, càng không thể trèo. Muốn ăn dừa Tân Quan phải nhờ
ông Bảy Đạt trèo bẻ . Bây giờ cây dừa quí giá đó không còn, mà người độc nhất
có thể trèo nó cũng đã mất, không biết hồi nào và tại sao. Cho đến bây giờ khi
ngồi viết những dòng này thì cây dừa lẫn ông Bảy Đạt hiện lên tâm trí tôi như
còn sống.
Ông là người tá điền lâu năm
nhất hay có họ hàng gì của ngoại, tôi cũng không rõ. Chỉ biết là lúc nào ngoại
tôi cần làm vườn, xay lúa giã gạo thì ông Bảy đến liền.
Hôm nọ khi tôi vừa về, đi ngang
qua vườn, tôi thấy có một bà già cô đơn, bệnh hoạn ngồi dưới một mái lều. Vài
ngày sau tôi đi ngang lại thấy bà vẫn ở đó. Thì ra đó là bà Bảy. Ông đã chết, bà
thì không con cháu, không có ai săn
sóc, lại sống giữa chiến tranh. Ngoại tôi có hơn gì bà bao nhiêu. Thời gian
thật là tàn nhẫn.
Những bạn gái từng chơi nhà
chòi lợp bằng lá chuối, những bạn trai từng lặn hụp ở dưới mương nay đã lạc đi
đâu hết, không còn một người nào quen gặp lại ở đây.
Ngày xưa chim chóc trong vườn
đông lắm. Tôi và cậu tôi là những tay bắn giàn thun không kém Dương Bá Dương
bách bộ xuyên dương là mấy. Những chú chim đủ loại, trao trảo, chim hát bội, gõ
kiến. . . bị hạ thường nằm lểnh nghểnh trong chiếc túi vải của tôi. Bây giờ vào
buổi sáng mà không thấy bóng một chú chim hút mật. Một sự vắng lặng đông đặc
bao trùm lấy tôi. Tôi đắm mình trong sự vắng lặng hãi hùng đó, nhưng tôi không
muốn thoát ra. Những ngọn cỏ và những mảnh sành vụn như níu lấy chân tôi.
Đó là sự sống dậy của những kỷ
niệm.
Một miếng mái to nằm chênh vênh
ở giữa vườn. Lòng tan vỡ của nó còn cố giữ lại một ít nước mưa . Từ đó nhô ra
một bụi cỏ già , cái này như linh hồn của cái kia. Không có mảnh mái thì cỏ
không có nước để sống, không có cỏ thì mảnh mái bể kia trở thành vô dụng hoàn
toàn.
Có phải đây là một trong những
chiếc mái vú quí giá cao khỏi đầu tôi mà ngoại dùng để đựng nước mưa bí uống
vào mùa hè? Muốn múc nước trong mái tôi phải trèo lên chiếc ghế đẩu. Ngoại tôi
sợ tôi cắm đầu vào đó không ai hay nên đã ràng nắp mái lại. Gần đó nằm chõng
chơ một chiếc bàn thờ chỉ còn có hai chân, còn mặt bàn thì bị cháy.
Hình như mảnh vườn này đã hứng
một trái bom cách đây đã lâu mà mưa nắng đã xóa đi gần hết dấu vết. Chiếc bàn
thờ bằng gỗ trắc mun đen cao khỏi đầu tôi, chạm trổ hình chim và hoa lá. Ngoại
tôi bắt cậu Tám tôi và tôi lau chùi thật kỹ mỗi khi có đám giỗ. Bên cạnh là
chiếc bàn tròn có bộ chân lùn chạm trổ bốn con lân chụm đuôi vào nhau, đầu mỗi
con quay ra một phía.
Chiếc bàn không còn nguyên và
mưa nắng làm mất màu. Nó nằm hứng mưa phơi nắng như vậy có lẽ là vì sức nặng
của nó. Ngoại tôi không thể tìm đâu ra tám người cùng một lúc để khiêng vào.
Hơn nữa từ đây mà nơ nó xuống chòi thì phải qua những cây cầu dừa hoặc những
khúc đứt lầy lội. Thôi đành để cho nó nằm ở đó tiếp tục cuộc đời sương gió .
Tôi nhìn thấy chiếc bàn mà đứt
ruột đứt gan. Không phải vì nó đáng giá gì ghê gớm lắm, nhưng vì nó là vật thân
yêu và nâng niu của gia đình. Chỉ những khách quí mới ngồi ở đó. Tôi thực tình
không dám đứng lâu trước đống bàn ghế sứt mẻ, gãy nát, cháy vỡ gom lại thành
đống như một chứng tích chiến thắng của Đồng Khởi mới vừa đây và của kháng
chiến chống Pháp trước kia.
Tôi lẳng lặng quay bước. Vườn
không có lối đi, phải rẽ cỏ. Bất ngờ tôi thấy một mảnh thiếc có kèm một miếng
kiếng bể dính mắc trên cành cây, một thứ cây lạ xưa kia không thể mọc xen với
cây ăn trái trong vườn này. Tôi nhận ra đó là một mảnh cửa của chiếc thùng hấp
bánh khéo mà dì Năm tôi thường dùng.
Dì là người thông minh và khéo
léo nhất nhà. Dì lúc nào cũng làm bánh, làm mứt, thêu thùa không khi nào ngớt.
Những tấm tiền bàn, tấm chấn, y môn, cửa buồng treo trong nhà đều do đì thêu
đẹp hơn cả hàng chợ. Tôi còn nhớ tấm chấn treo ở căn giữa dì thêu mất sáu tháng.
Khi treo lên khách đều trầm trồ và ngợi khen kẻ đã tạo ra nó.
Hãy tướng tượng một người con
gái mặt mày đỏ lơ đỏ lửng ngồi chăm chắm qua cửa kiếng của chiếc thùng theo dõi
những chiếc bánh bông lan, tay quạt than đước trên nóc thùng, tùy độ chín của
những chiếc bánh mà gia giảm độ nóng, mừng rỡ mãn nguyện khi bánh ngon, đau khổ
khi bánh khét… từng giây mắt không rời, bỗng có hai thằng oắt con đến phía sau
lưng nói lầm thầm:
- Tôi vái cho hư! Tôi vái cho
hư!
Người con gái quay lại la lên:
- Má ơi ! Xuống coi hai thằng
quỉ nè má!
Ngoại tôi bênh con trai và cháu
ngoại, hỏi:
- Tụi nó làm gì mà mày la?
- Nó vái cho bánh khét!
- Nó vái thì nó vái còn… khét
hay không là do mày, la nỗi gì?
- Hai thằng quỉ đó là tôi và
cậu Tám tôi.
Ức vì ngoại đã không rầy lại
còn binh hai thằng quỉ, dì Năm tôi khóc, bảo:
- Có khét tao cũng không cho.
- Không cho tôi ăn cắp.
Dì Năm tôi nghe nói vậy thì
càng sợ nên lấy cái bánh chai “thí” cho lũ quỉ và bảo:
- Dông đi rồi đừng có trở lại
nữa nghe !
Hai thằng quỉ đớp bánh chạy đi.
Ôi! những cải bánh tuyệt trần. Hai cậu cháu chạy đi bắn chim trèo cây ổi cây
xoài một chốc rồi trở lại. Cậu tôi hỏi.
- Có cái nào khét nữa hôn chị
Năm?
Dì Năm tôi sợ hai thằng quỉ nên
vừa thí bánh cho vừa năn nỉ:
- Đi chơi đi rồi làm xong chị
thưởng thêm.
Khi tôi vượt Trường Sơn, những
đêm nằm dưới mưa tôi mơ thấy quê nhà . Bây giờ giấc mơ đã trở thành sự thực mà
lại là giấc mơ tàn.
—>Chương 6
- 6 -
Một bữa, sau giờ tan phèn tôi
đi tìm ván để thuê đóng nắp hầm bí mật. Bây giờ dân toàn ở chòi, cột cau cột
dừa, vách lá , khó tìm ra miếng gỗ tốt. Nhà lớn thì giờ xuống xếp lại ngâm kèo
cột dưới ao, ở chòi. Mà cũng không dám ở trong vườn, phải ra ngoài đồng trống.
Đó là một cách nói với trực thăng:
- Chúng tôi phơi lưng giữa trời
như thế này không dính dáng tới mấy ông Việt Cộng, xin mấy ông Quốc Gia đừng
bắn!
Tuy vậy đám Cộng vẫn tùng dấu
lẫn trong chòi. Có nhiều tên bị “bù nốc”phát hiện đuổi tận ổ, đáp
xuống ném lựu đạn vô hầm.
Tôi đi vào nền nhà bà cụ ngoại,
tức là nhà của mẹ ruột ông ngoại tôi ngay giáp ranh với nhà bà cụ nội tức cô
ruột của ông nội tôi. Dân hai làng Minh Đức thường làm suôi với nhau lâu đời
cho nên đó cũng là miếng đất vừa là quê ngoại vừa là quê nội của tôi . Đã hơn
hai mươi năm tôi không đến ngôi nhà này.
Theo má tôi vừa nói, bộ cột kèo
của nhà bà cụ ngoại tôi bằng gỗ căm xe, ở đời đời không có mối mọt nào dám kê
răng vào. Nhà ngói năm gian nền cao một thước. Nhưng bây giờ tôi không tìm được
vài mảnh gỗ để làm nắp hầm bí mật. Ngay cả nhà của ông chánh trị viên cũng
không còn. Cậu cũng tập kết và về nhà như tôi. Bận trở lên R cậu còn dắt một
thằng con trai. Đến Tháp Mười thì bị bom. Cậu chết, không biết con cậu ra sao.
Tôi nghe tin đồn như vậy nhưng chẳng biết ai để hỏi thêm tin.
Vùng này xưa là một trong những
cái nôi của những lực lượng võ trang tỉnh trên Cù Lao Minh đối diện với Thạnh
Phú Đông bên Cù Lao Bảo. Mỗi lần bộ đội về đóng ở đây, dân hai làng Minh Đức và
Hương Mỹ đều cử đại biểu đến ủy lạo chiến sĩ, chớ không phải ai muốn đến là
đến.
Cũng từ nơi đây bộ đội anh Hai
Phải xuất phát đánh đồn Cầu Mống, một trận kinh thiên động địa mở màn cho toàn
quốc kháng chiến năm 1946. Tôi sẽ xin kể sau, trong trận đó có tên nhóc con này
tham gia.
Tôi nhớ trước cửa nhà có một
cội me vĩ đại, tàng cây che mát cả một góc sân. Vào mùa trái chín, cả xóm đều
đến làm quen với nó. Nhà nào cần nấu canh chua chỉ cần cho con nít đến gốc lượm
trái rụng là đủ. Năm nào cũng vậy, bà tôi hái phơi khô cất cả hũ ăn suốt năm.
Bây giờ gốc me còn trơ ra đó, không biết ai đốn hồi nào. Một nỗi buồn xâm chiếm
mảnh tâm hồn vốn đã xám xịt của tôi.
Tôi đi tay không về nhà bà cụ.
Thằng em tôi bảo:
- Bên chị Tư mời anh sang chơi.
- Chuyện gì vậy?
- Chắc anh của chỉ đến, ở trong
Cầu Mống ra.
- Lại vượt sông nữa hả?
Nhớ chuyện “hạnh ngộ “ bất
ngờ lần trước, tôi thối thoát. Nó cũng tinh ý. Sau đó nó tìm biết má cô thợ may
là bạn học trường làng của tôi, nên nói ngay:
- Kỳ này người Sài Gòn về anh
ạ.
- Ai rước mà người ta về ?
Tôi biết ai đã âm thầm cho
người đi rước dì Sáu cô thợ may nhưng vẫn hỏi.
- Chắc cô Hai.
- Ừ, đi thì đi !
Nói thế nhưng tôi vẫn ngần
ngại. Người ta là dân Sài Gòn, mình như “anh nhà quê chính hiệu” đứng gần nhau
chắc coi không được.
- Để chờ lệnh bác Hai hả em?
- Thì bác Hai đã bàn với ba
chỉ, nếu không, ai móc chỉ về đây cho được? Hơn nữa bà cụ và bà Tư (ngoại tôi)
đã đồng ý cả rồi mà.
Khi rước được người đẹp Sài Gòn
về khu giải phóng cả hai bên nội ngoại tôi đều mừng. Coi như đường đi đã đến
nửa đoạn rồi. Ai cũng sẵn sàng đóng góp, khuyến khích. Vì tôi là cháu đầu lòng
của cả bên nội lẫn bên ngoại nên sự ủng hộ càng lớn. Mấy đứa em tôi thì chuẩn
bị ăn đám cưới anh Hai. Tôi cũng nôn lắm, phen này có vợ, thiệt vui.
Cũng may sáng hôm đó trời đất
yên lành không có pháo mà trực thăng cũng êm rơ.
(Bạn đọc thân mến. Đã mấy chục
trang sách rồi tôi nói nhiều về tôi, thực tình là tôi không muốn, nhưng tôi
phải làm là vì tôi đưa cái tôi và dòng họ, gia đình tôi ra là để làm ví dụ cho
những gia đình khác, hoặc có thể, toàn thể dân tộc: Cách mạng đã phá hoại đất
nước và dân tộc Việt Nam như thế đó. Bàn tay ác hại của đảng mó tới đâu, máu đổ
tới đó. Nếu không có trò giải phóng thì giờ này dân tộc ta đâu có khốn khổ điêu
linh, nát tan thể xác lẫn luân lý và tinh thần).
Lần này tôi không lội sông như
lần trước mà phải đi vòng ra phía vàm để nhờ cây cầu khỉ lung lơ như răng rụng
nhưng cũng ráng đi. Chiến thắng không gian khổ thì thành công chẳng vẻ vang mà
! Thằng em tôi hết dạ thương anh nên cũng đi ết-coọc như lần
trước.
- Ở ngoài Bắc chắc đi xe hơi,
lộ đá, cầu sắt chớ đâu có lội sình và leo cầu khỉ hả anh Hai!
- Xã hội chủ nghĩa mà đâu có tệ
vầy em!
Mười năm không đi cầu khỉ, bây
giờ tôi nhìn dòng nước chảy mà run chân : Nếu lội sông sang nhà người ta thì
mất tư thế cách mạng quá đi. Sang tới bên đó quần áo bèo nhèo, mặt mày lem luốc
như chạy chụp dù. Ai đi coi vợ kiểu đó. Ngày xưa Lưu Bị giang tả cầu hôn oai
phong hơn nhiều. Vừa run run bước thì nhịp cầu giữa gãy cụp. Hai anh em nhào
lộn xuống sông. Thằng em hốt hoảng kêu om sòm:
- Anh Hai! Anh Hai, có sao
không?
Tôi trồi lên vuốt mặt cười khì
khì:
- Để anh lội sải nước ngược một
khúc để thử sức coi !
Tôi cởi súng ngắn đưa cho thằng
em đang ôm chân cầu lo lắng cho tôi, rồi bơi.
Nó cười hắc hắc.
- Anh cũng biết lội ha !
Tôi sải nước ngược một quãng
rồi thả ngửa trở lại chân cầu. Hai anh em leo lên, mình mẩy ướt mèm. Tôi bảo.
- Thôi trở về. Cái điềm này xui
lắm.
Thằng em tôi cương quyết tiến
tới. Nó bảo tôi trở về, còn nó sẽ đến nhà cô thợ may lấy xuồng bơi qua bến nhà
rước tôi. Tôi đành phải thi hành kế hoạch của nó.
Chỉ vài tiếng đồng hồ sau tôi
đã đối diện “Dì Sáu” nó.
Đó là một người con gái gần ba
mươi tuổi, nước da trắng, tóc thật đen, không son phấn có cặp mắt rất sắc. Cô
đã từng học nữ công bên bà Bảy đảng ủy viên của tôi, nên vừa gặp tôi thì hỏi
thăm gia đình cụ tôi liền.
- Lâu quá em không có dịp về
đây để thăm bà và cô Bảy, thiệt là có lỗi.
Nàng xưng “em” còn tôi thì cứ
giữ lễ bình thường trong mấy câu đầu xã giao.
- Tôi đi hai mươi năm mới về
được, nhưng ông bà đâu có bắt lỗi gì cô . Chiến tranh đã làm cho bà con xa cách
chứ đâu có ai muốn.
Chị Tư đem một dĩa cam đã lột
và tách ra từng múi và một dĩa bánh kẹo chắc của dì Sáu mua ở Sài Gòn về chớ ở
khu giải phóng không thể có thứ này. Ý chừng chị muốn bảo “hai em” ăn
cho thông cổ và nói những tiếng ngọt ngào với nhau.
Nhưng câu chuyện kết thúc nhanh
hơn sự mong ước của mọi người. Tôi đứng dậy chào nàng. Hai bên không tỏ chút gì
lưu luyến nhau. Chị Tư nét mặt buồn rời rợi, tiễn tôi ra ngõ. Tôi không nói gì
ngoài tiếng “cám ơn”. Còn chị thì lẳng lặng quay vô.
Trên đường về, thằng em tôi sốt
ruột hỏi thẳng:
- Anh thấy chỉ thế nào?
- Đẹp lắm?
- Học trò ruột của bà Bảy, đó
anh ạ ! Bà Bảy cho người đi móc chỉ về đó.
Thấy tôi không nói gì thêm về
cô “học trò ruột”, thằng em lại hỏi tới:
- Anh có nói gì không?
- Thì hỏi thăm công việc làm
ăn, ở Sài Gòn có vui không, chừng nào cổ về thăm chị Tư nữa?
- Vậy thôi à ?
- Chỉ vậy thôi.
- Anh thiệt à!
- Mới quen người ta thì bấy
nhiêu là đủ rồi. Em muốn anh nói gì nữa?
- Hổng lẽ chỉ về đây để nghe có
bấy nhiêu?
Bây giờ tôi mới thấy cái khó
của sự cưới vợ. Một người làm vừa lòng mọi người và mọi người làm vừa lòng một
người.
Vấn đề đặt ra khá cấp bách. Đám
em của tôi, lúc tôi đi theo Cách Mạng thì còn bồng trên tay bây giờ đã có con,
còn tôi thì vô sản hoàn toàn. Em gái tôi đã không lập gia đình ở vậy nuôi cha
mẹ già, bây giờ tôi về đây rồi thì tôi phải cho cha mẹ tôi một đứa cháu để vui
tuổi già. Đạo lý Khổng Tử có dạy rằng một trong bốn điều đại bất hiếu là
không có con trai để nối dòng. Bây giờ tôi thấy đó là điều có lý và tôi sợ nó
nhất.
Nhưng đứng trước hoàn cảnh này
ông cán Mùa Thu làm sao xoay sở. Có thể nào người ta bỏ công ăn chuyện làm và
gia đình trên đó để “dọn” về dưới này chăng? Nếu nàng ưng ý
thì tôi lấy gì nuôi? Cha mẹ tôi tôi còn không nuôi được bây giờ bắt cha mẹ phải
nuôi vợ mình hay sao?
Khi chưa đụng thực tế thì cứ
nghĩ là “một túp lều tranh một quả tim vàng”đẹp lắm. Nhưng thực tế
hơn ai hết là Sơn Nam. Năm 1949 ở miền Tây Nam Bộ anh đã bảo tôi:
- Một túp lều tranh với một bó
bạc xanh thì trái tim kia mới là trái tim vàng được.
Có lẽ người đẹp Sài Gòn cũng
nghĩ như thế. Nàng đâu còn là học sinh áo xanh áo tím mà mơ chuyện ép bướm ép
hoa tặng cho bạn tình.
Khuya hôm đó tôi nằm nghe tiếng
tù-và rúc từ chiếc đò máy quen thuộc trên Rạch Tân Hương. Nó đưa nàng đi rồi
rước nàng trở lại Sài Gòn. Tiếng tù-và vui buồn là tự nó chứ không phải do tôi
hoặc nàng.
Sống trong gia đình bà cụ tôi,
với một huyện ủy viên là cô Hai tôi, một đảng ủy viên là bà Bảy tôi, tôi không
phải lo mất lập trường, nên thừa thời giờ để đi sưu tầm tài liệu Tôi tiếp xúc
với mọi người.
Một nhận xét của tôi: “Người
dân tôi hết còn tà người” như Gorki từng nhận xét dân tộc của ông dưới
thời nào đó: “Người nông dân hết còn là người”.
Con người lúc nào cũng sợ hãi,
mắt láo liên. Nghe một tiếng vỗ nia đánh bập, một tiếng chài nhịp vào tai cối
cũng giật mình ngỡ đó là đạn pháo “đề-pa” !
Không dám đi quơ củi ngoài vườn
vì sợ lựu đạn của du kích. Không dám ra đồng trống vì sợ trực thăng, không dám
ngủ trên giường vì sợ cà-nông lăn xuống đất không kịp, không dám đi xa miệng
hầm vì sợ máy bay ném bom chạy về không kịp.
Nhận xét của tôi về Đồng Khởi:
Đó là một ván bài ăn may, còn Giải Phóng, một sòng bạc ăn lận bởi một tay chơi
tiêu lòn bên trong nội bộ.
Sau Đồng Khởi, QLVNCH đã đóng
lại ngay những đồn bót đã mất, hơn thế còn mở rộng thêm vùng kiểm soát khiếncho
vùng giải phóng teo lại như mảnh da lừa. Thời đánh Pháp vùng giải phóng thênh
thang bên Cù Lao Minh lẫn Cù Lao Bảo. Bên Minh chỉ có quận lỵ Mỏ Cày là do Pháp
kiểm soát, vùng đất còn lại, gồm có mười mấy xã của quận này và toàn bộ quận
Thành Phú không có đồn bót. Cơ quan bộ đội tha hồ đi bộ đi ghe. Một nửa kia của
Cù Lao Bảo từ Mỏ Cày lên tận đầu Cù Lao cũng giải phóng. Bây giờ vùng Việt Cộng
chui rút nằm trong gọng kềm Mỏ Cày Thạnh Phú. Ở Mỏ Cày chỉ có mấy xã Bình
Khánh, Phước Hiệp, An Thai, Thành Thới, Minh Đức, Tân Trung là đất cắm dùi của
lão Thọ, nhưng cán bộ và bộ đội không dám ăn no ngủ kỹ vì sợ biệt kích, chụp
dù, giang thuyền tới viếng không biết lúc nào, ngay cả nửa đêm cũng xảy ra
những trận chụp dù kinh tâm tán đỡm.
Đồng bằng Bến Tre quả là một
thứ Đồng Bằng Gai Góc chứ không phải một thứ đồng bằng mà Việt
Cộng có thể dùng làm nơi ăn hút và làm bàn đạp tấn công như xưa . Mỹ không phải
là Pháp. Bởi vậy nên quân Giải Phóng Miền Nam không thể có Tầm Vu, Sóc Xoài,
Giồng Đinh, Giồng Dứa, La Ngà, Bàu Cá. Còn riêng Bến Tre thì đốt đuốc tìm cũng
không ra Phú Lễ, Tân Xuân, Định Thủy, Giồng Chùa… mà chỉ có con ngựa trời khạc
không ra lửa. Còn toàn Miền Nam thì không có gì hơn là bãi xương trắng Bình Giã
Đồng Xoài Phước Long. Đó là những trận so cựa giữa Mỹ và Quân Đội Nhân Dân Miền
Bắc chứ không phải giữa Mỹ và Giải Phóng Quân. Giải Phóng Quân vào lúc tôi về
chỉ là những thanh niên ô hợp chưa có đủ súng, không có chỉ huy hiểu khoa học
quân sự, mà đó là những thanh niên bốc tếu. Chỉ được vài năm đầu sau Đồng Khởi.
Còn bây giờ là lúc Giải Phóng Quân đang tự giải phóng ra khỏi những cái đơn vị
Giải Phóng của mình để về nhà, giống y như thoái trào hồi 1950-52 của cuộc
kháng chiến chống Pháp.
Một bữa tôi đang tìm vị trí
ngoài vườn để làm hầm mới trốn máy bay. Vì trước đây trong nhà cụ tôi chỉ có
hầm trốn pháo. Ban đêm ngủ trong đó, ban ngày thì trốn máy bay cũng chui vô đó.
Nếu nhà bị ăn bom thì cả gia đình chết cháy. Đắp một cái hầm tính ra không kém
một cái nhà bao nhiêu. Phần lớn người ta giỡ nhà đem ra đồng cất chòi, còn cột
kèo dư thì xây hầm. Cuộc sống của người dân đang bình thường bỗng trở thành
cuộc sống ở chòi và ở hang.
Đang mệt thì có tiếng kêu:
- Anh Hai !
Tôi quay lại thấy một thanh
niên cao lớn, cổ quàng vải dù, đầu đội nón tai bèo, lưng đeo “Cun” có
vẻ oai phong lẫm liệt. Tôi không biết đó là ai, thì cậu ta tự giới thiệu:
- Em là thằng Bình nè.
- Bình nào?
Bà Bảy tôi đi đến đứng bên cạnh
và vò đầu nó:
- Thằng Bình con chú Năm Vị con
không nhớ à ?
Tôi gật đầu mơ màng. Mãi lúc
sau mới nhớ ra. Bà Bảy thích lắm. Vì chồng bà là trí thức tham gia Cách Mạng từ
45, tập kết ra Bắc được đi học Liên Xô về nước dạy Đại Học Tổng Hợp. Cứ vài
tháng bà được một lá thư dài tám tờ pơ-luya từ Hà Nội gởi vào.
Bà luôn luôn tin tưởng ở Bác
Hồ. Cho nên bà rất vui mừng. Bà nói:
- Họ Bùi bây giờ được hai thằng
đực rựa thật là quý. Bỏ cuốc đó đi, rồi bắt con gà mái, bà làm thịt đãi tụi
bây.
Mỗi lần nói chuyện với bà, tôi
thấy tội nghiệp bà hết sức. Gần bốn mươi tuổi rồi, bà hứa hôn hồi đầu kháng
chiến.
Bao giờ kháng chiến thành công,
Chúng ta cùng uống một chung rượu đào
Tết này ta tạm xa nhau,
Chắc rằng ta sẽ Tết sau sum vầy.
Tết sau là Tết nào? Bây giờ là
cái Tết thứ hai mươi rồi ! Bà rất tự hào. Bà tự ví đời mình như các nhân
vật Cung Oán Ngâm Khúc, Khuê Phụ Thán lẫnHòn Vọng Phu.
Rất tích cực công tác, luôn luôn đi vắng nhà lúc ban ngày. Còn ban đêm tuyệt
đối không ra khỏi nhà. Đảng ủy coi bà như một người gương mẫu, đồng thời là
linh hồn của họ vì tính khí cương trực, đức tính thủy chung cùng trình độ chính
trị văn hóa của bà. Bà là một người đẹp, dáng dấp mảnh mai, học chữ nho tại
nhà, làm thơ Đường luật và đi theo chí hướng của vị hôn phu một cách triệt để.
Bây giờ có thêm mấy thằng đực
rựa này nữa thì bà càng thấy chí hướng của bà là đúng. Tôi quăng cuốc đi vào.
Thì thấy một ông ngồi chong ngóc trong nhà. Đó lại là một thằng đực rựa họ Bùi
khác. Tôi kêu lên.
- Chú Khanh!
Chú là bà con chung đầu ông cụ
với tôi, tức là bà nội của chú là em gái của ông cụ tôi, cùng họ Bùi. Má của
chú là con gái của ông Chánh Đầu, một người rất có uy tín trong làng đặc biệt
hơn nữa, lúc về già ông cất nguyên một cái thánh thất Cao Đài, tu tại đó và mấy
năm cuối cùng của đời ông, ông không ăn cơm chay nữa mà chỉ ăn toàn bông và
uống nước mưa hứng giữa trời. Dân trong vùng mến phục ông, nhiều người đem bông
tới tặng ông dùng bữa. Ông ăn bất cứ bông gì. Ông bảo:
- Bông là tinh chất của vũ trụ.
Khi ông viên tịch, mộ ông ngày
nào cũng có bông tươi rắc lên. Chú có người anh thứ Tư học trường Le
Myre de Vilers cùng khóa với anh của Ngô Quang Trưởng, con dược sư Ngô
Quang Thọ ở Mỏ Cày. Chú đi kháng chiến. Lúc Léon de Roy chiếm đóng tỉnh Bến Tre
thì chú chạy xuống miền Tây ở vùng Đầm Cùn. Không biết lý do gì chú bị Sở Công
An Nam Bộ bắt. Sau đó ít lâu, được thả ra, chú về nhà cưới vợ làm ăn luôn, mặt
trận mặt gì mời chú cũng “Không!”. Một tiếng “không” dứt
khoát.
Ở Hà Nội tôi có gặp chú Khanh
một lần ở vùng đầu đường Hoàng Hoa Thám. Lúc đó chú bảo chú sắp về quê. Chẳng
ngờ bây giờ lại gặp nhau ở quê, mà tại nhà bà cụ họ Bùi. Bà cụ mừng rỡ vô cùng.
Cụ nói:
- Hồi xưa Địch Thiên Kim chỉ có
một đứa cháu là Địch Thanh, bây giờ tao có tới ba Địch Thanh, tao hơn bà Địch
Thiên Kim rồi.
Bà con tới lai rai, vì đến đông
không đủ hầm chui, khen:
- Một nhà “Cun” (Colt
– tức K54).
Thằng Bình làm đại đội trưởng
Giải Phóng Quân. Chú Khanh, thiếu tá . Chú về Nam giữa lúc rau muống tràn ngập
R, không có việc gì làm nên lãnh chức xã đội trưởng Kà-Tum. Vinh quang thay một
ông thiếu tá! Bà cụ tôi nói:
- Quan võ có thằng Khanh, quan
văn có thằng Triết.
Tôi hỏi tình hình trên R thì
chú lắc đầu không nói. Tôi hỏi về thăm nhà chừng nào chú đi. Chú bảo:
- Công tác đây chớ thăm nhà gì.
Tao tách đoàn ghé lại đây.
Cơm nước xong, trong lúc chú kể
chuyện cho cả nhà nghe thì tôi và thằng Bình đi ra vườn. Bình cao lớn như chú
tôi. Lúc tôi là “Tổng Tư Lệnh Thiếu Nhi Cứu Quốc” xóm Cổ Cò chỉ huy đám con nít
thì Bình còn ẵm trên tay. Bây giờ nó là đại đội trưởng. Hai anh em hỏi thăm
nhau qua loa rồi bước sang lãnh vực Cách Mạng.
- Em đóng quân bên Bảo à?
Tôi hỏi vậy vì nếu nó đóng quân
bên Minh thì ắt nó đã nghe tôi về và chạy đến lâu rồi. Nó nói:
- Em ở trên Mỹ Tho.
- Ủa sao lên tới đó?
- Dạ, hồi sau Đồng Khởi tụi em
bị đưa lên Khu để thành lập bộ đội Khu.
- Rồi sao?
- Dạ, thì em ở luôn trên đó tới
bây giờ.
Hồi ở Hà Nội, tôi được thư nhà
báo tin hai em con của chú tôi đi giải phóng quân, lại nhằm lúc tôi gặp nữ anh
hùng Tạ Thị Kiều nên ngòi bút tôi hứng khởi vô cùng. Sau khi viết truyện “Lửa
Quê Hương” tôi bèn lia thêm một bài “Gởi Cho Em Là Giải Phóng
Quân”. Hai bài đăng liên tiếp trên báo Văn Nghệ, là một điều hi hữu. Trong
bài Gởi Cho Em tôi có viết một câu, tới bây giờ hãy còn nhớ,
mà mắc cỡ rùng mình…- “Em hãy làm cội tùng, đừng sống cuộc đời của ngọn cỏ
trong chậu úp. . . “
Bây giờ ngồi đối diện với cội
tùng non hay ngọn cỏ già tôi cũng không biết.
- Em có dự trận Ấp Bắc không?
- Dạ có.
- Trận đó vang dội khắp thế
giới, chớ chẳng phải vừa nghen em!
Thấy thằng nhỏ làm thinh, tôi
nói tiếp:
- Đến nỗi ở ngoài Trung ương
gởi một nhà văn về viết về trận đó để gởi ra thế giới.
Đó là nhà văn Nguyễn Ngọc Tấn ở
Phòng Văn Nghệ Quân Đội, cấp bậc trung úy được gởi về Nam cho giải phóng quân,
trước cả Bùi Đức Ái và Nguyễn Văn Bỗng. Tấn đã đến tận Ấp Bắc viết một bài bút
ký gởi ra Bắc đăng báo, ký tên là Nguyễn Thi (không phải là Nguyễn Đình Thi).
Sau này Tấn qua Trà Vinh viết về Út Tịch là người “Nữ anh hùng giải phóng” được
Trung ương tuyên dương, được Bác Hồ tặng áo lụa!
Tấn khởi đầu làm văn nghệ bằng
thơ. Thơ kháng chiến của Tấn hay lắm, nhất là tả bộ.đội. _
Quét những lá vàng,
Vun sau thành đống
…Chờ một hôm nào hơ hóng áo anh.
…Trời ơi gai móc thịt da
Ở nhà còn lạnh huống ra chiến trường
(Thơ Đồng Nội)
Tuy không sắc sảo và điêu luyện
bằng Nguyễn Bính nhưng hơn xa Bảo Định Giang, Bảo Việt. Đời của Tấn là một bi
kịch. Khi ở chiến khu D, Tấn có yêu một nữ nhạc sĩ dương cầm. Hình như đã làm
lễ cưới. Không hiểu sao khi tập kết, Tấn không đem theo, trong lúc Tấn có thừa
tiêu chuẩn. Hơn nữa, Tấn là bạn cột chèo với Võ Huy Xứng là Trưởng Phòng Chánh
Trị khu lúc bấy giờ.
Ra Bắc ở một mình. Tấn đau khổ.
Đâu khoảng 62-63 gì đó không hiểu bằng cách nào mà bà nữ sĩ ra được Hà Nội
trong lúc chàng thi sĩ lại đã lên bệ phóng Trưởng Sơn. Hai bên gặp nhau chẳng
biết được mấy ngày. Chàng không thể ở lại còn nàng thì không lẽ mang ba lô vượt
Trường Sơn? Để cho chàng thêm thi hứng Trung ương bèn cho chàng đi nhanh vào
Trường Sơn, không để dây dưa sợ e cái lập trường mềm đi mất. Riêng nàng thì
được anh Sáu Thọ cho đi Bu Đa Pét học dương cầm. Từ xa, tới xa. Vì Cách Mạng xa
nhau. Rồi vì Cách Mạng lại xa nhau lần nữa. Lần trước mười năm lần này vĩnh viễn:
Tấn bị bom pháo đâu ở vùng Bời Lời, trong ba lô ắt hẳn có một bài thơ tình
không vần và không câu cuối.
Sẵn tài liệu sống trước mặt,
tôi dại gì lại bỏ qua. Thử khai thác xem có đủ chất viết một bài về Ấp Bắc
không. Tôi hỏi thằng em:
- Em có thể kể cho anh nghe về
trận Ấp Bắc không?
Cậu bé ngồi lặng thinh, hồi lâu
mới đáp nhỏ rí:
- Dạ được.
Nó kể cho tôi nghe, xong, tôi
hỏi đó là sự thực à?
- Dạ theo em biết thì nó như
thế đó .
Theo lời của Bình thì trận Ấp
Bắc là một chuyện không biết nên nói là may hay rủi. May là vì đoàn tải vũ khí
từ Trà Vinh về ngang Mỹ Tho thì bị quân Sài Gòn bao vây. Vũ khí này được đưa về
để thành lập một đơn vị chủ lực Khu II do Lê Quốc Sản ở ngoài Bắc về làm Tư
Lệnh. Sản là Trung Tá được phong Đại Tá để tương xứng với các Tư Lệnh Vùng. Sản
về, vừa đến Tháp Mười chưa giở trò gì được thì chết. Tôi có nói đến cái chết
của y trong hồi ký Củ Chi. Cùng lúc với Nguyễn Văn Bảo chánh ủy Sư Đoàn 330 về
làm chánh ủy Khu IV, Nguyễn Hoài Pho Tư Lệnh Khu III, cả ba mạng đều bỏ mạng.
Bị bao vây, đoàn vận tải phải phân phát một số vũ khí ra cho bộ đội Mỹ Tho-Bến
Tre vừa mới tập trung để hình thành chủ lực khu, nhưng có một số vũ khí mới
chưa ai biết xử dụng được nên phải chôn giấu và bị quân Sài Gòn móc lấy hết.
- Kết quả trận đánh ra sao. Em
cứ nói thật rồi anh liệu mà đề cao.
Thằng bé ngẫm nghĩ một hồi, rồi
nói:
- Tiểu đoàn em chết gần hết.
Ban chỉ huy tiểu đoàn không còn ai. Các ban chỉ huy đại đội hi sinh hoàn toàn.
Em lúc đó là tiểu đội phó được cho làm đại đội phó. Nhưng đại đội em chỉ được
hai tiểu đội. Cả tiểu đoàn quân số trên hai tràm còn lại chừng năm mươi.
- Rồi sao?
- Dạ rồi ở trên xuống ủy lạo,
tuyên đương phong chức và đặt tên là đơn vị anh hùng Tiểu Đoàn Ấp Bắc. Nếu
không có số vũ khí này thì tiểu đoàn em đâu có chết dữ vậy.
- Tại sao?
- Dạ vì tụi em chỉ có trường bá
đỏ mà không đủ đạn. Bắn một chập là hết trơn. Tụi nó chỉ cần nhảy giò xuống bắt
sống chớ đâu cần bắn mà chết.
Tôi xem mòi cậu đại đội trưởng
này không hồ hởi thừa thắng xông lên cho lắm nên hỏi qua chuyện gìa đình. Nó nói
thẳng không sợ tôi buồn:
- Em về thãm gia đình vô thời
hạn anh ạ.
- Sao vậy?
Tôi hiểu là thằng nhỏ mất ý chí
chỉến đấu nên chỉ hỏi lơ là. Nhưng nó cứ nói thẳng:
- Đơn vị em đâu còn mà trở lại.
Tình thế này mình không làm gì được. Ở Mỹ Tho không một giờ nào yên. Buổi sáng
thức dậy thật sớm, nấu cơm ăn rồi ra đổng phân tán vào các chòi dân, tổi mớì về
vườn, lại bị pháo. Toàn ở hầm. Một lần đơn vị em bị chụp gìữa đồng. Chắc có
điệp báo. Hoặc là nhân dân không muốn cho mình chen vô hầm, ở trong chòi với họ
nữa nên báo cho lính. Em sống sót là nhờ cái gì em cũng không biết nữa.
Sau này nó ở nhà luôn. Thím tôi
cưới vợ cho nó. Họ hàng không ai xúi nó đi trở lại đơn vị nữa. Mà có xúi chắc
nó cũng không đi. Năm nay (1993) nó đã có cháu nội.
Dịp may hiếm có, tôi đề nghị
với chú Khanh tổ chức một buổi về thăm nhà. Nhà tôi, nhà Bình và nhà chú ở gần
nhau. Sẵn có mặt ba chú cháu về thăm một chuyến.
Trước nhất bà Bảy và cô Hai tôi
bàn với đảng ủy và chi ủy tổ đảng địa phương. Tụi này thấy tôi về không có đeo
K54 thì lạnh nhạt, không giúp cả việc làm hầm. Tôi không đeo K54 như các nhà
quân sự lại nhét trong ba lô. K54 là vật chuẩn đánh giá cán bộ. Bây giờ thấy
chú Khanh và em Bình mang“Kun” thì họ tích cực giúp đỡ. Họ cho du
kích đi dọ đường trước, gỡ chướng ngại. Rồi một tổ đi nằm quá nhà tôi hễ có
lính quận ra thì báo liền.
Vậy là ba ông quan văn quan võ
họ Bùi yên chí lớn hồi hương với chiếc áo bà ba đen, chân đất và súng ngắn giắt
lưng. Má tôi căn dặn không cho tôi về nhà, vì sợ gián điệp báo cho lính. Lính
vô nhà tôi nằm sẵn. Về là đụng.
Tôi về tới nhà ngoại tôi, hôm
trước hôm sau cả chợ Cầu Mống đã hay: “ông Trung Tá”. Không biết ai
phong quân hàm cho tôi ngon vậy! Đi kháng chiến làm phóng viên chiến trường đã
đời, ra Bắc lãnh chức, vợ mấy thằng trưởng phòng trưởng ban chuyên làm kẻ đấm
bóp cho chúng, lại lãnh chuẩn úy. Tôi thèm cái “lon” sữa bò đó
à? Tôi cởi áo lính ra làm báo luôn. Sau này Tổng Cục Chính Trị gọi lại, tôi
cũng không luôn. Trở lại cao lắm cũng là đại úy như bọn Nguyễn Khải, Nguyễn
Ngọc Tấn là cùng. Mà tôi cũng đâu có ham làm“quan võ” nhất là dưới
quyền của ông đại úy răng bạc lập trường cao muôn trượng Thanh Tịnh.
Cuộc hồi hương của ba tên đực
rựa họ Bùi được bố trí vào lúc đêm và giờ xuẩt phát rất bí mật: chín giờ tối.
Với sự bố trí kể trên, nguy hiểm thứ nhất được loại trừ: biệt kích chụp dù. Chỉ
còn nguy hiểm thứ ba là pháo. Cầu Mống có pháo 105. Ở nhà thì pháo bắn cũng
chết. Vậy là coi như an toàn đển tám mươi phần trăm. Đèn pin không được dùng
đến vì đó là phương tiện hiện đại, có thể lẫn lộn với địch. Cái gì lạc hậu nhất
là của đảng ta: đuốc lá dừa.
Tôi về đến nhà, má tôi hồn vía
lên mây. Bà dậm chân:
– Mày về làm gì? Nhà cửa tan
tành như vậy đó. Coi mau mau rồi đi!
Tôi vô cửa hông ra cửa sau và
trên đường trở ra “căn cứ” tôi tạt vào thăm nhà ông nội bà nội, nhà ông Mười bà
Mười, nhà ông cụ, tửc ông nội của bố tôi, rồi đi một vòng kim tỉnh, vạch cỏ tìm
mộ ông nội rồi trở ra ngay.
Ở ngoài này bà cụ, bà Bảy, và
cô Hai đâu có ngủ. Cả nhà thức chờ tôi về và nghe ngóng coi có pháo bắn không.
Tôi không dám cho ngoại tôi hay vì má tôi dặn ngoại tôi đừng có cho tôi về. Hễ
vài bữa thì má tôi ra thăm chừng tôi một lần, coi tôi có còn ở đó không, và
tiếp tế thực phẩm, tiền bạc.
Cuộc hồi hương coi như thắng
lợi hoàn toàn. Chú Khanh và thằng Bình cũng đạt được mục đích như tôi, nghĩa là
rảo quanh nhà được một vòng.
—>Chương 7
- 7 -
Cuộc sưu tầm tài liệu để viết
tiểu thuyết Đồng Khởi ở quê ngoại của tôi chấm dứt. Một bữa tôi hỏi cô Hai tôi:
- Cô có biết bà nào tham gia
đội quân đầu tóc hồi đó không cô?
Cô Hai nói:
- Hồi đó cô chưa trách nhiệm.
Cháu muốn biết rõ thì phải lên tỉnh tìm bà Sáu Hòa. Chắc cháu có quen.
- Bả là ai mà cháu quen?
- Bả là cựu trào kháng chiến,
cán bộ của bà Ba Định. Hồi đó cháu ở văn phòng Thanh Niên tỉnh thì biết bả.
- Nhưng hồi đó đâu có ai tên
Sáu Hòa.
- Hình như bả tên là Sáu Nết.
- Dạ. Chị Sáu Nết, chị Hồng Yến
cháu có biết. Chồng bà Sáu Nết là ông Hồ Văn Thoại làm tờ báo Hi Sinh của tỉnh.
Còn chị Yến thì thành hôn với anh Phan Minh Triều, trưởng văn phòng của Ủy Ban
tỉnh.
- Cháu lên đó sẽ còn gặp nhiều
người nữa. Tài liệu thiếu gì. Lo không có đủ bút mực mà ghi.
Thế là tôi chuẩn bị đi qua gặp
tỉnh ủy bên Cù Lao Bảo. Trước khi đi tôi nhắn má tôi ra. Sau vụ cô gái Sài
Thành, mà tôi buồn lắm. Con gái vùng giải phóng kiếm đỏ con mắt không có một
đứa. Chúng đi giải phóng đâu đâu hoặc ra thành làm ăn rất khá, không cô nào
chịu ở nhà.
Lúc bấy giờ Mỹ đã vô, công việc
làm ăn hái ra tiền nên người ta ùn ùn đi Sài Gòn, không mấy ai theo giải phóng.
Có gia đình nông dân, vốn là tá điền của ngoại tôi, bị một thảm kịch vui vẻ.
Số là ông ta làm cán bộ nông
hội giải phóng. Ông có hai đứa con gái, mới ban đầu thì đi buôn hàng chuyến
theo đò máy lên tỉnh. Coi bộ mần ăn khá cô nàng vọt lên SàiGòn. Làm ăn khá hơn
nữa cô ở luôn. Ông bố dọa làm tờ từ vì con gái làm mẩt uy tín. Nhưng cô gái
không ngán, thừa thắng xông lên cô lấy luôn “lính Ngụy”. Hổng biết
lính cỡ nào mà có xe jeep chở cô về đến tỉnh. Cô nhảy xuống đò về nhà, thừa lúc
ông già đi họp nông hội, bèn xúc luôn cô em gái lên Sài Gòn gả cho “lính
Ngụy” luôn. Ông già hăm mẻ răng, nhưng hai thằng rể Ngụy vẫn cứ gởi
quà về cho bố vợ giải phóng đều đều, khi thì bánh Trung Thu, khi lại quần áo,
sữa đường dầu ăn. Ban đầu ông ta giữ lập trường“ta-bạn-thù” rất
nghiêm minh, la hét om sòm và dọa trả lại, nhưng dần dần quà gởi thường quá,
ông đem cho bớt các đồng chí. Các đổng chí đem ra xài công khai. Ông thấy không
ai nói gì nên cứ nhận, lâu lâu lại bảo gởi món này món nọ. Khi tôi sang đây hai
cô có gởi thơ nhận là đồng hương và cho biết ông già bị thương cụt một chân hồi
chiển tranh. Hai cô gởi thuốc men và một cặp tó về cho ông bố.
Má tôi đưa tôi một quãng trong
vườn dừa bà cụ rồi đứng lại móc tiền cho tôi:
- Tía mày không chịu cho mày
đi, nhưng mày đi, tía mày (má tôi không bao giờ gọì bố tôi bằng “ổng”) cũng để
cho mày đi. Hồi hòa bình tía mày bảo tao vô Khu 9 rước mày về. Mày nói để mày
đi hai năm. Bây giờ là mấy năm? Con Line không lấy chồng là vì
mày. Bây giờ tao già rồi, cháu ngoại không có, cháu nội cũng không. Mày coi mấy
thím của mày đó, cháu nội cháu ngoại cả bầy. Đây rổi tía mày cũng như ông
ngoại, khi chết không có cháu.
Lời trách móc thấm thía vô
cùng. Tôi còn biết nói gì. Tình hình như vầy làm sao kiếm ra một cô dâu cho bà?
- Mày không thấy đứa cán bộ phụ
nữ huyện, phụ nữ tỉnh gì sao?
- Không có đâu má ơi.
Rồi tôi đi, lòng buồn héo hon
vô hạn, tâm sự bời bời, nhưng còn biết làm sao? Hồi ở ngoài Bắc quyết lòng trốn
về cho được. Bây giờ về được rồi lại thối chí nản lòng. Tìm không gặp tỉnh ủy ở
bên Bảo. Tôi quay sang Cù Lao Minh, ở vùng An Định. Đang đứng lớ ngớ ở chợ Cái
Quao, làng An Định nhưng chợ tên là Cái Quao, cũng như làng Hương Mỹ nhưng tên
chợ là Cầu Mống, làng Minh Đức có chợ tên là Tân Hương, thì gặp một thằng bạn
cũ. Nó vừa ở dưới đò máy đi lên. Khu giải phóng xài toàn đò máy nhưng không phải
để cho bộ đội hành quân mà để dân đi thành. Làng nào có sông thì có đò máy, có
làng hai, ba chiếc, mỗi ngày có hai chuyến lên thành.
Nó tên là thằng Bảy Quế, con
thầy giáo Trỉ ở chợ Xép Hòa Lộc. Thấy nó ăn mặc bảnh bao, mũ phớt, cà rá đồng
hồ chói chang thì tôi sực nhớ nó công tác quân báo cho Hai Tình, trưởng ban
quân báo tỉnh cũng là bạn học của tôi và của chị ruột người đẹp Sài Gòn. Sau
này tôi gặp hắn lảng vảng ở bến đò này luôn, để lấy tin hoặc tung tin ra thành.
Hắn trỏ tay:
- Văn Công R xuống kia kìa!
- Ở đâu?
- Một số đã tản vô vườn còn một
số mê đồ thành đang bu trong các quán.
Tôi xộc vào thì thấy bá quan đủ
mặt. Trưởng đoàn là Ba Thanh Nha, soạn giả cải lương ở ngoài Hà Nội về, chạy
tới ôm chầm lẩy tôi:
- Về tới xứ rồi hả? Lo vợ cơn
gì được chưa?
- Anh đi đâu dưới này?
Thanh Nha rỉ tai tôi:
- Chạy trốn chiến dịch Johnson
City (hay Junction City) chớ đâu!.
- Trốn đâu chớ ở đây không có
“hảo hảo” đâu anh Ba.
- Tao đi tuốt Khu 9 chớ ở đây
sao nổi. Bom pháo ở đây còn hơn ở R.
- Anh qua Đồng Chó Ngáp thấy
chó có ngáp không?
- Phải đổi ra là Đồng Chó Tru
thì mới đúng.
- Quân tướng còn đủ không anh
Ba?
Ba Nha nháy mắt và cười:
- Tao đem nó xuống cho mày kìa!
- Nó nào?
- Làm bộ hoài! Con “su hào” mày
không nhớ hả?
Tôi như bừng tỉnh giẩc mơ. Trên
đường Trường Sơn, chúng tôi có đi quá tình bạn một tí ti , Ba Thanh Nha bảo:
- Tìm chỗ uống trà bàn với chú
mày vài chuyện công lẫn tư.
- Chỗ thì có nhưng không thể ở
lâu trong chợ được. Trực thăng nó đến“phượng hoàng vồ mồi” đó.
Ba Nha cười:
- Chà! Mới xuống đồng bằng mà
rành dữ ha! Có bị phát nào chưa?
- Mới bị “bủa lưới” nhưng chưa
bị phóng lao. Mới bị phóng pháo thôi.
Anh rỉ tai tôi.
- Ê đừng có giỡn với nó nghe
chú em. Tỉnh ủy Long An vừa bị một mẻ… to.
Vài ba người trong ban chỉ huy
tháp tùng theo Ba Nha đi uống trà. Ba Nha còn quay lại nhắc chung:
- Mua gì thì mua riết đi nghe.
Làng chàng ở đây không có lợi.
Tôi nói với Ba Nha:
- Tôi chắc tụi nó “nuôi” cái
chợ này cho mập rồi nó làm thịt không biết giờ nào! Chớ không có lý nào chợ búa
rình rang như thế này mà nó thả cho tự do?
- Đúng đó ông bạn cố tri!
Một tiếng nói bật lên và một
bàn tay vỗ vai tôi. Tôi ngó lại, thì ra là Bảy Quế. Tôi giới thiệu với ban chỉ
huy đoàn Văn Công.
- Thằng “báo” hại! Đây là ông…
Nhìn cặp mắt Bảy Quế nháy, tôi
nói trớ.
- Đây là ông bạn tôi có cô em
gái rất đẹp không biết gả chưa?
Cả bọn cùng cười. Bảy Quế cũng
cườì:
- Gả rồi nhưng gã cho “quân
nó” mới bỏ mạng sa tràng chớ!
- Sao mẩt lập “trường
gà” vậy mậy? Hồi kháng chiến, mỗi lần nó dắt tụi tôi ghé nhà “ưu
điểm”, nó đều rỉ tai từng thằng: “Muốn ăn gì ăn, muốn ngủ chừng nào
thì ngủ nhưng cấm mò em gái tao!”
Cả bọn cười rộ. Tôi tiếp:
- Bây giờ lại bị người ta cuỗm
mẩt. Mà là quân nó, không phải quân ta.
Bảy Quế cười ngọ nguậy bộ râu
cá chốt hóm hỉnh:
- Ai biểu tụi bây cứ lấp ló không
chịu dô!
Ba Nha chen vào:
- Hồì đó mấy cậu này chưa có
biết muốn vợ. Tội nghiệp, bây giờ muốn động trời thì lại kiếm không ra!
Đồ phụ tùng sẵn trong ba lô,
chỉ cần moi ra. Nào chung mắt trâu, nào bình trà làm bằng hộp gi-gô. Củi thì
đó, nhà sụp, nhà bị bom, tha hồ rút lấy làm củi chụm chớ đâu có phải như trên
Trường Sơn gọt cây đứng lấy từng lát như cam thảo, mà nấu lâu lắc!
Ba Nha vừa châm trà vừa lâm
râm.
- Ơn ai, vong hồn Hoàng nhạc sĩ
và Lê thi sĩ!… về đây hưởng bậy chung trà.
- Nói nhảm gì vậy ông nội?
Tám Không, thành vìên của ban
chỉ huy đoàn nói:
- Hoàng Việt và Lê Anh Xuân
chết rồi.
- Ủa, sao vậy?
- Lê Anh Xuân vă thằng Hồng Đức
bị chết ngộp dưới hầm ở Long An còn Hoàng Việt bị rốc kết phóng ngay miệng hầm
ở An Hữu.
- Ảnh đi đâu vậy?
- Mày quên à? Ảnh về là để làm
Bản Giao Hưởng II về Cửu Long Giang. Vừa tớí An Hữu thì lâm nạn.
Tôi ngồi chết trân. Cả ba người
này tôi đều biết. Riêng Hoàng Việt thì rất thân, thân đến độ dám nói chuyện bất
mãn với nhau mà không sợ đi báo cáo. Cả một chuỗi dài kỷ niệm giữa hai đứa hiện
lên trong tôi. Thôi, vậy là hết một đời nghệ sĩ. Đi năm sông bảy núi không sao
về chết ở lỗ chân trâu.
Trên đường Trường Sơn anh tâm
sự với tôi về những bản giao hưởng mà anh định sẽ làm. Anh nói anh đã từng đến
Sông Danube đi thuyền trên đó. Danube đâu có hơn gì Cửu Long Giang nhưng nó có
được thể hiện trong hai bản bất hủ là Sóng Danube và Danube
Xanh. Cửu Long ta hùng vĩ thế mà… Anh đã làm bản giao hưởng Quê Hương ở bên
Bucarest. Giàn nhạc giao hưởng Hà Nội đã trình diễn bản nhạc này ở Nhà Hát Lớn
để tiễn chân anh về Nam, cũng là vĩnh biệt anh lần đó.
(Đến đây tôi muốn trả lời cho
một người bạn nhạc sĩ Việt Nam hiện đang tị nạn ở Mexico. Nhạc sĩ đọc sách của
tôi và hỏi tôi: Hoàng Việt về Mỹ Tho có một tiểu đoàn bảo vệ cho anh để anh sáng
tác, phải không? Xin thưa: Đó là chuyện trên sao Hỏa. Hà Nội có coi những nhà
văn hóa và nghệ sĩ ra gì. Hoàng Việt là một nhạc sĩ sáng tác nhiều nhất và hay
nhất trong chín năm kháng chiến Nam Bộ. Anh là hạt ngọc của Việt Nam chứ không
phải riêng của Cộng Sản. Đến năm 1965, theo tôi biết thì ở Miền Bắc chỉ có
Hoàng Việt là người độc nhất có khả năng sáng tác nhạc giao hưởng. Từ Bungari về
với mái tóc bạc quá nửa, anh được đưa vào trường vác gạch chuẩn bị đi Nam.
Với tiêu chuẩn của một binh nhì. Anh ốm yếu, nghiện trà thuốc nặng cho nên trên
đường Trường Sơn ngoài cái đói anh còn phải chống trả với cái ghiền. Không một
tấc sắt trong tay, chân đau lê lết, giao liên bỏ bê, có biết đó là ai. May sao
tôi cũng ốm lọt lại sau đoàn. Thằng què được thằng mù cõng, nương tựa với nhau
mà lết về đến quê nhà.
Chúng coi Hoàng Việt như một
tân binh nên phát võng kaki, không có món gì đặc biệt, cho nên cái ba lô của
anh mỗi khi mắc mưa, nặng như Ngũ Hành Sơn nằm trên lưng ông Tôn Hành Giả Hoàng
Việt có gắn lá bùa lập trường và tiêu chuẩn.
Tiêu chuẩn gì. Lê Đức Thọ, anh
vợ là cựu Trưởng Ty Công An Bạc Liêu ra Bắc được cho ngồi ghế Giám Đốc Sở Du
Lịch, về Nam lại được đi máy bay. Vợ Nguyễn Chí Thanh và vợ tướng vô thăm chồng
trong R lại được đi máy bay và được lính khiêng từ Minốt về Tây Ninh bằng võng
hoa. Chuyện đó đã đành, bởi vì chồng làm đại tướng trung tướng thì vợ phải được
tiền hô hậu ủng là lẽ thường. Tổng Bí Lê Duẩn có vợ bé bị vợ lớn đánh đuổi phải
đem gởi cho Mao Chủ Tịch, mỗi lần sang thăm vợ bé , tốn ít nhất là mười năm lợi
tức của một xã viên.
Đừng nói đâu xa, hãy nhìn Thép
Mới Tổng Biên Tập báo Nhân Dân, cả đời viết được chục rưỡi bài tùy bút, “tác
phẩm” của y gom góp lại in được chừng mười đến mười lăm trang đọc
được. Thế mà vô Nam, hắn đi đâu được đám Bake bộ chỉ huy giải phóng cho cần vụ
đi theo đứa mang ba lô, đứa vác AK hộ vệ. Vì hắn là dân triều đình. Còn Hoàng
Việt đi đơn thân độc mã, phó mặc cho giao liên, du kích vô trách nhiệm cho nên
thay vì cất giấu kỹ lưỡng chúng lại nhét Hoàng Việt vào một cái hầm, trống
toang hoác, chẳng trách gì trực thăng phóng quả rốc kết ngay chóc miệng hầm.
Tất cả thân xác nhà nghệ sĩ số một của Miền Bắc chỉ còn lại một mảng tóc bạc
dính vào gốc cây gãy cúp bên miệng hầm. Phát súng đó đắt giá không kém gì nhánh
cây giết Nguyễn Chí Thanh ở Tam Giác Sắt trước Mậu Thân.
Còn Lê Anh Xuân, con cụ Ca Văn
Thỉnh cũng đáng tội nghiệp. Xuân vô Nam hận một nỗi: người tình ngoài Bắc không
chờ đợi nên đã sang ngang. Lê Anh Xuân đang viết trường ca về Nguyễn Văn
Trỗi: “Trong Cách Mạng, yêu nhau, song sắt nhà tù cũng nở hoa “.
Xuống dưới kia y sẽ viết tiếp với sự hợp tác của Nguyễn Văn Trỗi.
Thanh Nha thuật cái chết Hoàng
Việt rất chi tiết. Hiện giờ vợ Hoàng Việt chưa biết tin. Thằng bé mà Hoàng Việt
mơ tưởng sẽ có sau hai mươi năm cách xa vợ hiện đang nằm trong bụng mẹ, nhưng
khi nó ra đời thì tiếng khóc của nó là tiếng kêu oán than của một bé mồ côi –
mà Lê Trực (tức Hoàng Việt) đã tiên tri cho mình từ trước 45.
Tiếng còi trong sương đêm
Nghe vi vu oán than
Thôi khóc chi đau lòng
Con cố yên giấc nồng
Khi ra đi có hứa thu nay về.
Tiếng ru của người mẹ
trong Tiếng Còi Trong Sương Đêm nay đã trở thành chính tiếng
ru cho bé Lê Tương Phùng , cái tên mà anh đã đặt cho đứa bé và đã nói với tôi
trước khi về tới R, ngay trong lúc đau nằm tại một trạm ở giữa Trường Sơn man
rợ. Lê Tương Phùng đã trở thành Lê Thiên Thu đứa bé nay đã hai mươi tám tuổi
nhưng không bao giờ được bố hôn, bố bồng.
—>Chương 8
No comments:
Post a Comment