NGƯỜI SỐNG VÀ NGƯỜI CHẾT
1 giờ 30, Sài Gòn ngái ngủ trong ánh nắng gay gắt. Từng loạt súng nổ làm thức giấc dân Đô Thành. Tin đảo chánh lan truyền trong dư luận từ mấy tháng nay bây giờ đã trở thành sự thực. Nhưng ai làm vụ này và rồi ra sao?
Trong một quán cóc vùng Cống Bà Xếp Lê Văn Duyệt, bốn chàng thanh niên ngồi uống cà phê, nghe ngóng tình hình.
Chàng thứ nhất: Lật đổ đi cho xong, dân chúng chán ngấy rồi. Nghẹt thở quá chịu sao nổi.
Chàng thứ hai: Chuyến này, anh em Quốc Gia có làm nên trò trống gì không. Lúc này, đảo chánh là nguy hiểm.
Chàng thứ ba: Dù thế nào cũng phải duy trì ông Diệm ở vị trí Quốc Trưởng.
Chàng thứ Tư: Đã dẹp là dẹp hết…phải làm mới lại hết, phải thay đổi tất cả.
Bốn chàng thanh niên đều là cán bộ của VNQDĐ, một chàng nhà văn mơ tưởng đến ngày huy hoàng của Cách Mạng. Một chàng tín đồ Phật giáo thuần thành trong lòng vẫn còn mối cừu hận đêm 21-8 Cảnh Sát và Lực Lượng Đặc biệt tấn công chùa. Còn hai chàng tín đồ Thiên Chúa Giáo. Họ đang bàng hoàng trước giờ khởi điểm của một biến chuyển lịch sử.
Ai đây sẽ lãnh đạo quốc gia? Những khuôn mặt lớn nào xuất hiện? Lúc ấy, dám chắc rằng không một ai có thể liệu Phó Tổng Thống Thơ sẽ làm “Cách Mạng”. Nhưng cũng không ai ngạc nhiên thấy Trung Tướng Dương Văn Minh trở thành Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng.
Hầu hết giới trẻ lúc ấy đều mơ ước Miền Nam có được một cuộc Cách mạng thực sự trên nền tảng quốc gia dân tộc. Cho nên khi nghe tin Đảo Chánh với một Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng thì không ai khỏi phấn khởi…
Bốn chàng thanh niên trên, thức gần trắng đêm nghe tin Cách Mạng và nghe súng nổ từng giờ hồi hộp lo âu.
Sáng ngày 2-11-63 Saigon bốc bừng trong một khí thế vũ bão. Đường phố đông nghẹt những người… Các Phật Tử đua nhau tiến về chùa Xá Lợi, Giác Minh, Từ Quang để thăm hỏi tin tức các Thày…Thanh niên nam nữ lũ lượt kéo nhau lên Dinh Gia Long và thành Cộng Hòa.
Thế là cáo chung một chế độ.
9 giờ 15, Đài Phát Thanh loan tin: “Anh em ông Diệm và ông Nhu đã tự tử”.
Tại sao lại tự tử?
Hàng ngàn người nô nức kéo nhau ra đường như một ngày đại hội. Thanh niên nam nữ trong niềm khát vọng thực, trong nhiệt tình chan hòa của giòng máu nóng tuổi trẻ kéo đến kéo nhau từng lớp lớp về phía trung tâm thành phố. Quân Cách mạng được nhiệt liệt hoan nghênh và được dân chúng tặng quà với sự tán thưởng như các vị anh hùng của dân tộc.
Chàng thanh niên tên Thịnh, tên Tụy, tên Vĩnh không thể tin anh em ông Diệm tự tử…Ba chàng thanh niên cúi đầu đọc cho hai ông một kinh Lạy Cha cùng với lời nguyện cầu trong tâm tưởng…
Chàng thanh niên tên Trâm, tên Duyệt lòng tràn đầy phấn khởi với bao nhiêu niềm tin vào Cách mạng. Đảng sẽ hồi sinh sau bao nhiêu năm thoi thóp…Các anh sẽ làm tất cả, dựng lại Đảng tích cực dấn thân…
Từng đoàn thanh niên nam nữ hè nhau đi đập phá trụ sở Việt Tấn Xã và 9 tờ báo được coi là thân chính quyền. 26 trụ sở các hội đoàn được coi là của chính quyền cũng bị đập phá tan hoang.
Tướng Dương Văn Minh trở nên một thần tượng mới. Tướng Đôn, Đính được suy tôn như các vị anh hùng lỗi lạc.
Tư thất của một số nhân vật thuộc chế độ cũ cũng bị đám đông kéo đến đập phá. Thiệt hại nặng nề là tư thất của các ông Ngô Trọng Hiếu, Cao Xuân Vỹ. Đám đông nam nữ reo hò vang dậy. SV Thịnh hồi tưởng lại khí thế trong những ngày đầu Cách Mạng anh cho rằng, “Quả thực đã có một giờ Cách Mạng, một ngày Cách Mạng trào dâng trong nhiệt huyết tuổi trẻ và nhiều tầng lớp dân chúng…Khí thế lúc ấy như vũ bão…” Đám đông sinh viên học sinh tràn vào trụ sở phong trào Phụ Nữ Liên Đới đập phá tan hoang và tinh thần lên cao.
Chế độ Ngô Đình Diệm cáo chung trước hết là do kết quả của những chùm mâu thuẫn nội bộ và sự góp công lật đổ chế độ của một số viên chức thư lại chỉ biết cúi đầu thi hành, không một sáng kiến mới và xây dựng chế độ.
ANH ĐI ĐƯỜNG ANH TÔI ĐI ĐƯỜNG TÔI
Sự xuất hiện của Tướng Khánh trên chính trường VN cùng với sự ủng hộ tích cực của Mỹ qua vai trò của Cabot Lodge đến hai ông Minh, Thơ là một đôi bạn tâm giao, thân thiết. Ông Thơ ông Minh cũng như tấm tình thân thiết đối với ông Ngô Trọng Hiếu và ông Huỳnh Hữu Nghĩa. Khi đảo chánh thành công thì tứ tài tử chia làm hai ngả: Ông Hiếu và ông Nghĩa rủ nhau vào khám Chí Hòa. Ông Thơ và ông Minh lên đến hàng tột đỉnh “công danh“. Tại sao lại như vậy? Một lớp người từng lương cao bổng hậu của chế độ cũ song một phần thì nối tiếp nhau đi vào khám Chí Hòa, hay nếu không cũng bị vong gia bại sản. Còn một phần khác nối đuôi nhau tiến lên theo ngọn triều Cách Mạng, chẳng qua đó cũng chỉ là bức tranh “vân cẩu” muôn đời của thế sự.
Những lý do nào khiến cho đôi bạn Thơ, Hiếu trong phút chốc kẻ được cách mạng hậu trọng như một vị “bán anh hùng” còn người thì bị lên án như một “hung thần” tay sai của vợ chồng ông Nhu.
Trước năm 1954, khi ông Thơ còn làm Tỉnh Trưởng Long Xuyên, thì ông Hiếu làm Trưởng Ty Ngân Khố và hai người trở thành bạn tri giao thân thiết. Ngoài Tướng Minh với ông Hiếu, ông Thơ còn một người bạn tâm giao khác là ông Huỳnh Hữu Nghĩa nguyên Bộ Trưởng Lao Động.
Phút chốc thế sự thay đổi, anh đi đường anh tôi đi đường tôi…ông Ngô Trọng Hiếu sau khi ra tù, ngày nay ở trong một căn nhà bình dân trong xóm Thị Nghè, sáng chiều leo lên chiếc vecspa cũ chỉ để đi dạy học, vào lớp nói tiếng Tây thả dàn ngâm Kiều, học Chinh Phụ Ngâm. Đêm đêm nằm tay vắt trán mà suy ngẫm trò đời. Cựu phó Tổng Thống Thơ từ ngày “thôi làm” Thủ Tướng lui về vui thú trong cảnh toại hưởng kỳ thanh lâu lâu đi Pháp một chuyến đi Nhật một chuyến…Và mới được Nhật tặng huy chương (1968).
Sự thực đối với chế độ cũ, Phó TT Thơ đã có công với rất nhiều người. Nhờ sự đề bạt của phó TT Thơ mà nhiều người có lương cao bổng hậu, áo mão xênh sang. Trong số người này có cả Tướng Tá, tổng bộ trưởng. Chính ông Ngô Trọng Hiếu cũng là người bạn chí tình của ông Thơ và được ông Thơ đề bạt lên TT Diệm (Chính phủ Ngô Đình Diệm thành lập ngày 7-7-1054, ông Nguyễn Ngọc Thơ đã đề nghị cho ông Ngô Trọng Hiếu làm Tổng Trưởng Thông Tin nhưng sau đó có sự trục trặc nên ông Bùi Kiên Tín giữ chức vụ này). Chính ông Thơ đã giới thiệu và vận động để ông Hiếu đi làm đại diện Chính phủ tại Cambodge (hàng Đặc Sứ).
Sau này đôi bạn Hiếu Thơ trở thành xa lạ nhau trước hết chỉ vì nguyên nhân: Ông Hiếu bị coi là người thân tín của ông Ngô Đình Nhu, còn ông Thơ lại được TT Diệm không những kính nể mà còn coi nhau như tình anh em. Ông Nguyễn Ngọc Thơ rất kiêng kỵ những ai được coi là “người” của ông Nhu.
Tại sao như vậy? Báo chí ngoại quốc nói rằng Tướng Big Minh bị ông Nhu ganh ghét và loại trừ.
Điều đó có đúng không?
Ông Cố Vấn Nhu đã nghĩ về Tướng Big Minh như thế nào? Nhất là vai trò của Phó TT Thơ ra sao trong 9 năm của chế độ cũ và 3 tháng sau đảo chánh? Trong chương này xin nói lại cho rõ mà không nhắm tô hồng hay bôi đen ai.
MỘNG CÔNG HẦU
Sau ngày 1-11-1963, Một số đông chính khách đã có bụng mừng thầm là phen này thế nào họ cũng được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chiếu cố. Cụ thể hơn hết là cố làm sao vận động cho mình và phe đảng mình được tướng lãnh và các “Thầy” đề bạt vào ghế nào đó trong chính phủ Cách Mạng, mà do Tướng Dương Văn Minh đang thăm dò để chọn một số vị “lương đống quốc gia” chèo lái con thuyền VN trong một giai đoạn mới.
Trong 2 ngày 2 và 3 tháng 11 Tướng Minh rất bận rộn và phải dành nhiều thì giờ tiếp xúc với một số chính khách có tên tuổi.
Những người sau đây được coi là có nhiều hy vọng được chỉ định làm Thủ Tướng Chính Phủ: Quý ông Trần Văn Văn, Phan Huy Quát, Vũ Văn Mẫu, Trần Văn Hương, Nguyễn Ngọc Thơ…Ai cũng tưởng Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng sẽ không bao giờ đề cử cựu Phó TT Thơ làm thủ tướng vì như vậy “khó coi” nếu xét về tình cảm và “không thể được” nếu xét về cái lý.
Song như lịch sử đã diễn biến, cuối cùng chỉ có ông Nguyễn Ngọc Thơ được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng lựa chọn. Nói là Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng lựa chọn chỉ là cách nói theo nguyên tắc và trên văn từ. Thực tế không phải như vậy.
BÀN TAY PHÙ THỦY
Trước khi Đại Sứ Cabot Lodge thừa lệnh Hoa Thịnh Đốn cho bật đèn xanh vào giờ H dể các tướng lãnh bắt tay vào đại sự thì cũng vào lúc đó, trục liên lạc Hoa Thịnh Đốn-Saigon bắt đầu hoạt động từng giờ từng phút. Công việc đảo chánh đã trở thành “thứ yếu”. Điều quan hệ nhất đối với Hoa Thịnh Đốn là tìm được người thừa kế chính phủ Ngô Đình Diệm cho hợp tình hợp lý. Cái tình ở đây phải hiểu là hợp “hảo ý” của giới chức Mỹ, phải được lòng “các thầy” trong hàng ngũ lãnh đạo Phật giáo và đồng thời có thể làm cho đồng bào Thiên Chúa Giáo được an tâm. Ông Lodge vốn là một tay “cao thủ” trong ngành ngoại giao Mỹ và từ lâu bị nghi ngờ có những hoạt động riêng cho cơ quan CIA.
Tuy vậy, ông ta luôn luôn tỏ ra tôn trọng những nguyên tắc ngoại giao. Từ sáng ngày 2-11 ông Lodge đã tiếp xúc rộng rãi với ngoại giao đoàn nhất là mấy vị đại sứ mà ông Lodge quan tâm nhất đó là các đại sứ Anh, đại sứ Nhật sau nữa là Tòa Khâm Sứ đại diện cho toàn thánh Vatican tại Quốc Gia VN. Dĩ nhiên là tòa khâm sứ đã hoàn toàn dè dặt và chỉ cư xử với ông Lodge theo mức độ ngoại giao bình thường.
Lúc đầu đã có một vài ứng viên được giới chức Mỹ lưu tâm và dùng làm trái ballon nhỏ để thăm dò. Đó là Giáo Sư Vũ Văn Mẫu, cựu Ngoại Trưởng của Tổng Thống Diệm, một vài người Mỹ thuộc phòng chính trị tòa Đại Sứ Hoa Kỳ cho rằng, ông Mẫu vừa có tiếng trong giới ngoại giao, vừa có thành tích đối với Phật Giáo nhân vụ giáo sư Mẫu “xuống tóc” và qua Ấn Độ hành hương để gọi là phản đối chính phủ về vụ Phật Giáo. Ông Mẫu lại là một luật gia tên tuổi khéo léo mềm mỏng. Tuy vậy, một vài giới Mỹ không hài lòng vì một điểm duy nhất vì GS Mẫu là người Bắc Việt di cư. Lập trường của ông Mẫu lại không rõ rệt, ông không được lòng tin cậy của Phật giáo như các nhà “lãnh đạo mới” đồng thời một số người khác lại coi Giáo Sư Mẫu như một người có trách nhiệm về sự ám sát tinh thần (Assasitnat Moral) đối với chế độ của TT Diệm. Theo giới am tường chính sự tại HĐQNCM thì ngay các tướng lãnh cũng “lờ mờ” không ai biết ai sẽ được chỉ định làm tân Thủ Tướng và nhiều vị tướng trong HĐ cho đến phút chót mới biết tin ông Thơ được chỉ định.
Trọn ngày 3-11-1963, giới chức Mỹ vẫn chưa dứt khoát trong việc “khuyến cáo” Tướng Minh chỉ định.
Ngoại Trưởng Dean Rusk cũng như Thứ Trưởng Harriman dĩ nhiên trong cương vị của họ không thể bày tỏ ý định nào. Nhưng qua những cuộc đàm đạo với ĐS Lodge một số chính khách Việt Nam cũng đã hiểu được rằng, người Mỹ muốn một thủ tướng thuộc type “ôn hòa trung dung” được hiểu theo cái nghĩa thư lại bàn giấy. Khuynh hướng Thượng Tọa Trí Quang vẫn còn xa lạ với GS Mẫu.
Giới chức Mỹ muốn được tiếp tục đều đặn như không có chuyện gì xảy ra nghĩa là ông Diệm chết là chuyện riêng còn chế độ của ông thì vẫn cần duy trì miễn sao thuận tình cảnh mới. Sau này, người ta cho rằng, Đs Lodge bị Phật Giáo cho vào mê hồn trận và xỏ mũi và đồng thời Mỹ cũng như HĐQNCM đã bị chi phối bởi áp lực rất mạnh mẽ của phía Phật Giáo. Sự thực như thế này: HĐQNCM có thể chịu sự chi phối mạnh mẽ như vậy, song ông Đại Sứ Lodge thì không.
Cái vẻ bề ngoài thì Đại Sứ Lodge nghiêng hẳn về phía Phật Giáo của các Thượng Tọa Tâm Châu và Trí Quang. Nhưng trong đường hướng mới của Mỹ. Ông Lodge đã “lựa chọn” phía Phật Giáo Nam Việt (Mai Thọ Truyền).
Vì giản dị, Phật Giáo Nam Việt trong quá khứ được coi là hiền hòa, không có những tham vọng chính trị là một tập thể tương đối thuần thành về phương diện tôn giáo. Hơn nữa phía Phật Giáo Nam Việt sau 1-11-1963 đã tỏ ra dè dặt, hay đúng hơn, tách khỏi các thầy Tâm Châu và Trí Quang.
Trong một chiến thuật giai đoạn thì Đại Sứ Lodge phải đi với phe Phật Giáo của các Thượng Tọa Tâm Châu và Trí Quang. Trong một chiến lược và từ cục bộ đến toàn bộ, thì ông Lodge không thể xử dụng người của khối này trong tư thế thủ tướng chính phủ vì đây được coi là khởi điểm của lộ trình mới. Do lẽ đó, ông Lodge đã khuyến cáo Tướng Minh nên tìm người này người nọ. Ông Lodge rất khôn khéo không chỉ rõ đích danh ai nhưng với một số tiêu chuẩn nào đó Tướng Minh có thể tìm ngay được vị Thủ Tướng hợp ý với ông lại hợp ý đại sứ Mỹ.
TUỒNG MỚI KÉP CŨ
Người đó như lịch sử đã ghi: Theo Hiến Ước tạm thời số 1; Tướng Minh với tư cách Quốc Trưởng đã chỉ định ông Nguyễn Ngọc Thơ thành lập chính phủ: Sắc lệnh lại do chính ông Nguyễn Ngọc Thơ ấn ký. Thành phần gồm 14 Tổng Bộ Trưởng chia ra 4 sắc thái rõ rệt:
1- Chuyên viên Kỹ Sư Trần Ngọc Oánh, Phạm Hoàng Hồ.
2- Chính trị gia “không ưa” chế độ cũ (nhưng lại có ít nhiều liên lạc bí mật) là GS Âu Trường Thanh.
3- Tướng lãnh gồm 3 vị được coi là thân cận của Tướng Minh.
4- Còn lại là các vị thuộc chế độ cũ từng là then chốt trong guồng máy của chế độ đó (từng là Tổng Thơ Ký Phủ Tổng Thống như ông Nguyễn Thành Cung đến Kỹ Sư Trần Lê Quang là một chuyên viên được TT Diệm thương yêu và coi như người trong nhà).
Một vài vị khác được coi là chế độ cũ nếu hiểu như một công chức và quân nhân của mọi triều đại). Những Tổng Bộ Trưởng đều là người của chế độ cũ tuy được “Cách Mạng” xài tạm song trước hết phải là người của ông Thơ nếu không thì cũng không bị ông Thơ ghét hay bị nghi ngờ là người của ông Nhu. Ông Thơ có thể chấp nhận một cách vui vẻ nếu cộng sự viên là “con cái” của TT Diệm song ông sẽ quay mặt đi và coi như kẻ đáng ghét nhất nếu ai đến với ông mà trước đây lại từng được ông Nhu tin cẩn trọng dụng. Đó cũng là đầu mối của tấm thảm kịch “chế độ Ngô Đình Diệm“.
Việc chỉ định ông Nguyễn Ngọc Thơ được làm Thủ Tướng mặc dầu người Mỹ đã lượng tính trước sự bất hợp tác của khối Phật Giáo và đảng phái nhất là ông Thơ lại không thể tìm được cảm tình đối với đa số Phật tử Hòa Hảo… Tất nhiên là Cao Đài cũng không ủng hộ. Biết như thế người Mỹ vẫn tiến hành và tích cực khuyến cáo Tướng Minh. Bởi vì giản dị là người Mỹ có sẵn một giải pháp mà ông Lodge đang bỏ túi. Tạm thời trong lúc chuyển tiếp phải có ông Thơ (cũng như khi “giải pháp” ấy được ném ra tức là lúc Tướng Nguyễn Khánh được đem lên diễn đài thì ông Lodge vẫn phải khuyến cáo tích cực để Tướng Minh đóng vai trò “tạm thời trong lúc chuyển tiếp”.
CHẾ ĐỘ DIỆM KHÔNG DIỆM
Dù không được lòng ai, dù bị mang tiếng đã làm sống lại một chế độ “Diệm không Diệm” song sự lựa chọn ông Thơ có nhiều cái hợp lý :
1) Ông Thơ là bạn tri kỷ của Tướng Minh.
2) Ông Thơ đã quen việc trong suốt 9 năm của chế độ cũ.
3) Ông Thơ trước sau vẫn là đốc phủ sứ với tất cả cái nghĩa của giới này trước năm 1945. Ông Thơ dầu sao vẫn là một địa chủ nên người Mỹ có đủ yếu tố để tin tưởng vào lập trường địa chủ của ông.
4) Ông Thơ tuy làm quan lại thời Pháp nguyên Bí Thư Toàn Quyền Decoux nhưng ông Thơ không phải là mẫu người được Pháp đào tạo, từ truyền thống văn hóa Pháp như ông Ngô Đình Nhu hay Kỹ Sư Trần Văn Văn v.v… Điều mà người Mỹ rất ngại.
Có một dư luận trong chính giới thân Mỹ lúc ấy là: Nếu không có sự thảm sát anh em TT Diệm thì Đại Sứ Trần Văn Chương đã trở về nước và ông có nhiều hy vọng làm thủ tướng. Song vì con rể ông bị thảm sát, một nhạc gia tất nhiên không thể làm như vậy (đây chỉ là một dư luận được tung ra để thăm dò vào lúc ấy). “Cũng nên ghi thêm, ngày 28-10-1963 nguyên Đại Sứ Trần Văn Chương đã lên tiếng công kích nặng nề chế độ TT Diệm và con rể ông”.
Kể từ ngày 4-11 phe các Tướng Minh, Đôn, Kim, Xuân, Đính trở thành ngũ hổ song sự phân hóa trong HĐQNCM càng trở nên rõ rệt mỗi bên đều đề cao cảnh giác.
Một số đơn vị tham dự đảo chánh được điều động ra khỏi đô thành. Một số sĩ quan cấp tá như Phạm Ngọc Thảo bị theo dõi sát nút (Đại Tá Đỗ Mậu được thăng thiếu tướng nhưng vô quyền sau được bổ nhiệm Tổng Lãnh Sự Việt Nam tại Hong Kong).
Tuy mấy tướng lãnh như Xuân, Đôn, Đính, Kim…đang có thực quyền sinh sát trong sự “hiện diện” của một vài tướng lãnh cũng như sự xuất hiện của cựu Trung Tá Trần Đình Lan đã làm cho giới chức Mỹ không hài lòng. Người Mỹ không những “kỵ” văn hóa Pháp mà “kỵ” cả nhưng ai bị nghi ngờ “người của Pháp”. Như thế, ta cũng hiểu được rằng, trong lúc mà Mỹ tin tưởng sẽ chiến thắng Cộng Sản bằng con đường và cách thức của Mỹ thì ở đây, Mỹ có thể chấp nhận CS nằm vùng (nếu sự nằm vùng có lợi về phía Mỹ) song không thể chấp nhận sự hiện diện và thao túng của Phòng Nhì cũng như các tay phản gián Pháp.
Đó cũng là lý do khiến Trần Đình Lan cũng như Vương Văn Đông phải cuốn gói ra đi mặc dù hai người này đã có thành tích “diệt Cộng” khét tiếng trước năm 1954. (Thực ra thì cơ quan CIA Mỹ cũng biết rõ rằng, Trần Đình Lan hay Vương Văn Đông sẽ không làm nên trò trống gì nhưng họ lại dùng hai sĩ quan thân Pháp này như một bằng chứng cho “hồ sơ” được gọi là Trung Lập của bộ ba Minh, Kim, Xuân và bằng chứng đó là một phần “luận cứ” để biện minh cho cuộc chỉnh lý của tướng Khánh).
BÀN TAY MÓC NỐI
Khi Phó Tổng Thống Thơ được chỉ định thành lập Chính Phủ đồng thời các đảng phái, Phật Giáo cũng tiêu tan hy vọng mà họ vẫn thường hướng về HĐQNCM coi như đấy là nơi sẽ có nhiều phép lạ xây dựng cơ đồ cho đất nước.
Thủ Tướng Thơ trả lời báo chí dạo đó là thủ tướng đã có ý định từ chức Phó TT từ dạo tháng 9 tháng 10… nhưng Trung Tướng Dương Văn Minh cản ngăn (?) vì sợ hỏng chuyện. Thủ Tướng Thơ cũng cho biết ông có biết về những kế hoạch lật đổ TT Diệm. Sau này một vài người bạn thân của ông Thơ cho rằng, đó chỉ là cách ông Thơ biện minh cho sự hiện diện của ông khi được “cách mạng” trọng dụng. Sự thực, trước ngày 1-11-1963 kể cả bạn bè thân cận của Phó TT Thơ chưa bao giờ thấy ông ngỏ ý từ chức Phó Tổng Thống, ông Thơ chỉ thực sự bị từ chức Phó Tổng Thống khi cuộc đảo chánh thành công.
Vai trò của ông Thơ đã liên hệ như thế nào đối với TT Diệm và Trung Tướng Minh sau này? Trước hết, Tướng Minh khi còn là trung tá đã được ông Nguyễn Ngọc Thơ đề bạt lên TT Ngô Đình Diệm (1954) và cũng nhờ sự đề bạt của ông Thơ nên TT Diệm đã một thời hoàn toàn tin cậy tướng Minh.
Như đoạn viết đã viết trên, Phó TT Thơ là bạn tâm giao với Tướng Dương Văn Minh và hai ông Hiếu và Nghĩa.
Khi TT Diệm còn hoạt động ở trong bóng tối, ông Huỳnh Hữu Nghĩa được coi là một cán bộ giao liên tin cẩn. Chính ông Nghĩa đã có công “móc nối” giữa anh em TT Diệm và Trung Tướng Trịnh Minh Thế. Đồng thời TT Ngô Đình Diệm quen biết Phó TT Thơ cũng do sự móc nối của ông Nghĩa. Rồi Phó TT Thơ lại là người móc nối Trung Tá Dương Văn Minh (1954) với TT Diệm. Đó cũng là cái “vòng vo thân hữu” nhiều khi không cần tài cho lắm, song nếu có anh em đưa đẩy đề bạt thì vấn đề tạo lập công danh kể như truyện đi du ngoạn lại trúng số “cá cặp”
ĐỊA PHƯƠNG
Khi ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh, có hai vấn đề mà TT Diệm quan tâm bậc nhất về phương diện nội bộ:
1) Yếu tố nhân sự và vấn đề nhân sự miền Nam.
2) Thành phần lãnh đạo trong quân đội. Ông Ngô Đình Nhu mấy năm đầu vẫn quan niệm dứt khoát rằng, Bắc, Nam, Trung không thành vấn đề. Điều quan trọng là họ có làm được không? Song TT Diệm tế nhị hơn ông em điều này: “Phải dùng người sinh quán tại miền Nam ít nhất cũng phải theo một tỷ lệ tương đối so với dân số Nam phần”. Cũng bởi lý do đó ngay từ buổi đầu, ông Nguyễn Ngọc Thơ đã được TT Diệm lưu tâm đặc biệt. Ông Thơ lại có một quá khứ “hành chánh” hợp nhãn giới TT Diệm vì ông Thơ là một đốc phủ sứ.
Theo quan niệm của TT Diệm thì đó là một giới “biết việc” cho nên không phải chỉ riêng một ĐPS Nguyễn Ngọc Thơ được trọng dụng mà nhiều ĐPS khác đã được TT Diệm đặc biệt cất nhắc như trường hợp Đốc Phủ Sứ Hải, Đốc Phủ Sứ Công.
TT Ngô Đình Diệm lại dùng ông Thơ như một tâm điểm để móc nối với hàng ngũ quan lại và địa chủ tại miền Nam. Trong 2 năm đầu 1954-1956 ông Thơ đã thành công trong nhiệm vụ này. Uy tín của ông đối với TT Diệm càng ngày càng vững chắc, nhất là ông Thơ được coi như người có công lớn trong vụ tướng Hòa Hảo Ba Cụt, cùng các vụ giàn xếp với mấy nhóm Hòa Hảo khác (Nhóm Hòa Hảo Trần Văn Soái tự Năm Lửa, Lâm Thành Nguyên Nguyễn Giác Ngộ). Trong chế độ NĐD có hai người được TT Diệm kính nể đó là Ngoại Trưởng Vũ Văn Mẫu và Phó TT Nguyễn Ngọc Thơ. Riêng ông Thơ, TT Diệm thường nói với Phó TT Thơ đại khái: “Ngài thấy thế nào? Ngài đi dùm tôi việc này” Trong những lúc không có mặt ông Thơ. Ông Diệm vẫn thường “một tiếng Phó TT hai tiếng Phó TT. Cụ Phó như thế, ngài như vậy”. Rất ít khi TT Diệm gọi ông Thơ bằng “ông”. Về phía quân đội, khi về nước chấp chánh, TT Diệm coi như “trắng tay” không có một tên quân, không có một tên tướng tá nào được coi là “người của mình”. Trong lúc hoàn toàn thiếu cán bộ quân sự tin cẩn, ông Nguyễn Ngọc Thơ đã đề bạt Trung Tá Dương Văn Minh. Tất nhiên là TT Diệm rất hoan hỉ chấp nhận. Trong đó Trung Tá Minh được coi là sĩ quan cấp tá được TT Diệm yêu mến tin cẩn nhất. Trung Tá Minh lần lượt được trao phó các chức vụ quan trọng như Tư Lệnh chiến dịch Rừng Sát và chiến dịch bình định tại miền Tây. TT Diệm vẫn coi tướng Minh là một thứ “homme de bataille”…Sau vụ chiến thắng Rừng Sát, Đại Tá Minh dẫn đầu đoàn quân tiến về thủ đô đi trên đại lộ Catinat rồi về Dinh Độc Lập…. trước bao nhiêu tiếng hoan hô vang dậy. Báo chí của nhà nước lại được dịp thổi phồng, tán dương rất bay bướm. TT Ngô Đình Diệm sáng hôm ấy đã sẵn sàng ở thềm Dinh Độc Lập để đón mừng “Người anh hùng Rừng Sát“… Sau này TT Diệm vinh thăng Đại Tá Minh lên Thiếu Tướng.
TƯỚNG KHÔNG QUÂN
Xét về hai con người, một Phó TT Thơ và một Tướng Dương Văn Minh thì Tướng Minh được TT Diệm trọng hậu ngay từ buổi ban đầu và nổi bật một cách dễ dàng. Ông trở thành ngôi sao sáng trong hàng tướng tá kể từ đầu năm 1955. Ông Thơ phải đợi đến năm 1956 mới được bổ nhậm Phó Tổng Thống, mặc dầu ông đã tham gia chính phủ đầu tiên của TT Diệm với tư cách Bộ Trưởng Nội Vụ (7-7-1954) Song vai trò còn lu mờ và chỉ như một viên chức phụ tá Thủ Tướng. Tướng Minh càng ngày càng được TT Diệm tín nhiệm và yêu mến nhờ hội được mấy điều kiện mà TT Diệm cho là xứng đáng theo hai tiêu chuẩn :
1) Tướng Minh có vóc dáng một Tướng lãnh đàng hoàng.
2) Tướng Minh không có những vụ lem nhem vì “vợ nọ con kia hay bài bạc”. Hơn nữa, do sự kính mến Phó TT Thơ nên TT Diệm cũng mến tướng Minh.
Khi thành lập Bộ Tư Lệnh Hành Quân, Tướng Minh được chỉ định là Tư Lệnh , lúc ấy ông đã đeo lon ba sao và nguyên là Tư Lệnh Quân Khu Thủ Đô. Giới thân cận của TT Diệm cho rằng TT Diệm đặc biệt lưu tâm đến Bộ Tư Lệnh Hành Quân và đề cử Tướng Minh. TT Diệm coi như là một tín nhiệm đặc biệt. Ông Diệm rất mù mờ về lãnh vực quân sự. Hai tiếng Hành Quân đối với ông là cả một sự trọng đại. Khi chỉ định Tướng Minh, TT Diệm đã cho rằng chỉ có Tướng Minh mới xứng đáng vì TT vẫn cho rằng Tướng Minh là một homme de bataille.
Tuy vậy, Tướng Minh lại không mấy ham chức vụ “không quân” này.
Tướng Minh thường tỏ ra không hảo ý với vị Trung Tướng Tư Lệnh Quân Khu Thủ Đô (trước ngày 11-11-1960). Tướng Minh vẫn phê bình công khai là ông Trung Tướng này “nhẩy dù-đi tắt“…
Trước vụ 11-11-1960, chế độ cũ không hề thắc mắc đến Tướng Minh vì coi ông là người thân tín của “ông cụ”. Nhưng sau ngày 11-11-60 vì Tướng Minh tuyên bố đứng trung lập giữa chính quyền và phe đảo chánh (báo Journal Extrême Orient 13-11-1960) rồi lại có báo cáo là trước ngày đảo chánh Tướng Đôn có vào Saigon và gặp Tướng Minh cũng như Tướng Kim ở ngay Bộ Tư Lệnh Hành Quân. Đó cũng là lý do làm cho Tướng Minh bị xa dần chế độ.
NƯỚC VỚI LỬA
Giữa Tướng Minh và ông Ngô Đình Nhu có ít sự liên lạc. Người thân cận nhất của ông Nhu hiểu rõ hơn ai hết là ông Nhu để ý đến Tướng Minh qua một vài biến cố quan trọng như vụ Rừng Sát, chiến dịch thanh toán các lực lượng võ trang Hòa Hỏa, vụ đảo chánh hụt 11-11-1960 mặc dù ông Nhu có đọc trên báo Journal Extrême Orient thấy tường thuật Tướng Minh tuyên bố “Je reste neutre” ông cũng làm thinh. Thực ra ông Nhu không để ý đến Tướng Minh. Vì có “máu say” chính trị nên tướng lãnh như Tướng Minh dưới mắt ông cũng chỉ là nhà quân sự bình thường. Ông Nhu cho rằng Tướng Minh có tài chiến đấu nhưng ở một mức nào thôi chứ không phải là một chiến lược gia quân sự. Ông Nhu chỉ bắt đầu để ý đến Tướng Minh kể từ tháng 9 năm 1963, khi có tin đồn về một cuộc đảo chánh của các tướng lãnh.
Nhưng tại sao Tướng Minh lại “kỵ” ông Nhu và cho rằng ông Nhu “ghen ghét” với mình? Theo báo chí có một lý do thầm kín như thế này: Sau vụ thanh toán Bình Xuyên tại Saigon và Rừng Sát, dân chúng loan truyền “huyền thoại” nhằm suy tôn Tướng Minh, là Tướng Minh tịch thu được bao nhiêu vàng bạc đều đem nộp cho Tổng Thống. Lại có một nguồn tin khác trong giới chỉ huy quân sự tại Saigon dạo ấy, là, khi Tướng Minh làm Tư Lệnh dẹp Bình Xuyên, tịch thu rất nhiều “bao bố” giấy bạc. Nhiều bao bạc bị rơi xuống nước nên ướt đẫm. Số giấy bạc này được mang vào phơi khô và “ủi” cho phẳng phiu ngay tại Tòa Tỉnh Trưởng Chợ Lớn.
Sau đó, không hiểu được đem đi đâu và chia phần cho những ai? Có đúng rõ rệt là chính quyền hồi đó không nhận được một đồng xu nào trong số bạc lớn lao này nếu có. Tuy vậy, chính quyền cũng không thấy lên tiếng về vụ Tướng Minh đem nộp vàng bạc của Bình Xuyên cho TT Diệm cũng như số bạc lớn lao trên đây nếu có thì bỏ vào túi riêng của những ai? Phải chăng vì thế mà có sự tránh né?
Một lý do khác nữa khiến Tướng Minh “kỵ” ông Nhu đơn giản vì Phó TT Thơ cũng “kỵ” ông Nhu. Tuy được TT Diệm kính nể song PTT Thơ lại tỏ ra không hài lòng với ông Nhu. Thường ngày, ông Thơ vẫn vào Dinh nhưng chỉ vào thẳng văn phòng Tổng Thống – đệ trình công việc, có khi hàng tháng ông mới gặp ông Nhu một lần và hai người cũng chỉ trao đổi vài câu thăm hỏi xã giao. Ông Nhu thì cho rằng ông Thơ không biết gì về chính trị và cái khả năng hành chánh của ông thì cũng đã quá lỗi thời. Nhưng ông anh kính mến ông Thơ thì ông em cũng phải kính mến. Dưới mắt ông Nhu, Phó TT Thơ cũng là người “được việc” nhất là ông lại chịu khó đại diện Tổng Thống trong các buổi hội hè, lễ nghi. Sự thực ông Nhu không bao giờ hỏi han PTT Thơ về các việc chính trị, ông Nhu cho rằng ông Thơ không có khả năng về lãnh vực này. Ông Nhu không ghét ông Thơ, trái lại tỏ ra có thiện cảm nhất là ông Thơ lại khôn khéo và luôn luôn tỏ ra khiêm tốn bình dị. Tuy là PTT mỗi lần ông Thơ đi đâu thì đều im lìm… không kèn không trống ồn ào không cả xe hộ tống…ông lại có thói quen ngồi bên cạnh tài xế.
Vào năm 1957, khi tiễn chân TT Diệm công du Mỹ, Phó TT Thơ gặp ông Nhu tại phi trường Tân Sơn Nhứt đã nói nhỏ với ông Nhu: ” Tôi không hiểu tại sao ông BS Tuyến cứ cho người theo dõi tôi hoài” Mấy hôm sau, ông Nhu nói lại việc đó với ông Tuyến: “Làm thế nào mà ông Phó TT lại phàn nàn như vậy” Ông Tuyến rất đỗi ngạc nhiên vì ông không có người để làm việc đó.
TỚI LUI ĐÚNG LÚC
Ông Nguyễn Ngọc Thơ đã có một hành động hết sức đẹp trong dịp cải tổ chánh phủ ngày 24-9-54 (với sự tham gia rộng rãi của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo) hành động đó như sau: Ông Thơ nguyên tỉnh trưởng Long Xuyên vốn là khu vực được coi như là lãnh thổ của Hòa Hảo, giáo phái này từ lâu tỏ ra “thiếu thân thiện” nếu không nói hiềm khích đối với ông Thơ. Sau khi trở thành Bộ Trưởng Nội Vụ của chính phủ Ngô Đình Diệm, ông Thơ lại càng bị Hòa Hảo nghi ngờ. Trong lần cải tổ chánh phủ vào tháng 9 kể trên, phe Hòa Hảo Trần Văn Soái “lên tiếng” với ông Ngô Đình Nhu rằng họ chỉ tham gia chính phủ với điều kiện này điều kiện kia trong đó có một điều kiện không chấp nhận sự có mặt của ông Thơ trong thành phần nội các mới.
TT Ngô Đình Diệm phản đối với lý do, từ ngày ông Thơ lên làm Bộ Trưởng Nội Vụ cho đến lúc ấy, ông Thơ chưa có một lầm lỗi nào trái lại ông đã làm việc một cách tận tâm đắc lực. TT Diệm nhất quyết không nhượng bộ phe Trần Văn Soái về điểm này. Khi hai bên chính phủ và Hòa Hảo còn đang “marchander” ông Thơ biết việc này, chính ông nói với TT Diệm xin tự ý rút lui để TT Diệm xử trí với phe Hòa Hảo.
Vì biết phe Hòa Hảo coi ông Thơ như kẻ thù, TT Diệm tìm cách để ông “vắng mặt” một thời gian, đó cũng là ý muốn của ông. Vì vậy, ông Thơ được bổ nhiệm làm Đại Sứ Việt Nam tại Nhật Bản. Vào tháng 4-1955 sau khi chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia tan vỡ, Trần Văn Soái, Lương Trọng Tường từ chức…. Hòa Hảo chống lại chính phủ Ngô Đình Diệm và miền Tây mịt mờ khói lửa, ông Đại Sứ Nguyễn Ngọc Thơ được gọi về nước, vẫn giữ nguyên chức vụ Đại Sứ song ông được Tổng Thống Diệm trao phó cho nhiệm vụ đặc biệt giải quyết tất cả các vấn đề chính trị tại miền Tây. Ông Thơ được coi là đại diện Thủ Tướng Chính Phủ trong việc kiểm soát chiến dịch bình định và thu xếp vụ Hòa Hảo.
Sau khi vụ Hòa Hảo được coi như thanh toán xong, ông Thơ lại trở qua Nhật. Đó cũng là ý muốn của ông.
Thực ra ông Thơ muốn tự mình “làm mờ” vai trò của mình trong vụ Hòa Hảo nhất là vụ bắt tướng Hòa Hảo Lê Quang Vinh mà ông Thơ là người có trách nhiệm. Ông trở qua Nhật là vì vậy mặc dù Thủ Tướng Diệm có ý giữ ông ở lại nước nhận một chức vụ quan trọng hơn.
NGÀY TRỞ VỀ
Tháng 3-1956, Tướng Hòa Hảo Trần Văn Soái trở lại hợp tác với chính phủ, Tướng Dương Văn Minh họp báo nói về trường hợp qui thuận của Tướng Soái, chiến dịch miền Tây được coi như kết thúc. Tương Minh cho biết, chiến dịch Hoàng Diệu đã tịch thu được 20 ký vàng 16 triệu 1/2 bạc mặt số tiền này ông đem nộp cho chính phủ và dùng xây cất một Cô Nhi Viện Quốc Gia. Đồng thời 5656 sĩ quan và binh sĩ Hòa Hảo đã về hợp tác với chính phủ trong một buổi lễ tại Cái Vồn (8-3-56). Vấn đề Hòa Hảo miền Tây coi như xong. Ông Nguyễn Ngọc Thơ lúc ấy mới công khai tham chánh và được bổ nhiệm Bộ Trưởng Kinh Tế thay thế Bộ Trưởng Trần Văn Mẹo (16-5-1956).
Tuy hai ông Diệm Nhu muốn ông Thơ nắm Bộ Nội Vụ vì TT Diệm coi đó là sở trường của ông Thơ nhưng ông Thơ không nhận và ông chỉ thích Bộ Kinh Tế, ông Thơ chính thức trở thành người của chế độ. Trong buổi tiếp tân vào tối ngày 26-10-1955- Quốc Khánh đầu tiên của Đệ Nhất Cộng Hòa, ông Thơ xuất hiện bên cạnh TT Diệm với tư cách Phó Tổng Thống. Buổi tiếp tân hôm ấy, trong bộ nhung phục mới của cấp tướng, Thiếu Tướng Minh được mọi người chú ý đặc biệt vì ông đã trở thành “con cưng” của chế độ và đang được Tổng Thống thương yêu. Bạn bè của PTT cũng lên vù vù từ đó.
NỖI BUỒN NHO NHỎ
Vì không mấy khi được ông Nhu tham khảo về chính sự, Phó TT Thơ mỗi ngày càng xa cách ông cố vấn với mặc cảm rằng, ông Nhu chỉ là một Cố Vấn. Đối với công quyền ông không có “ký lô” nào vì ông cố vấn không phải là một “titre officiel”. Phó TT mới là nhân vật số 2. Do đó ông phải hơn ông Nhu và sẽ không cần biết ông Nhu, chỉ cần biết Tổng Thống. Tuy vậy, mỗi lần gặp ông Nhu, PTT Thơ vẫn mềm mỏng, khôn khéo và tỏ ra rụt rè. Tuy bên trong, có lẽ, Phó TT Thơ không được hài lòng do một số những bất mãn nào đó, có khi chỉ là chuyện rất tầm thường.
Thí dụ như vụ Thiếu Tá Đỗ Kiến Nhiễu, Tỉnh Trưởng Long Xuyên (1957). Thiếu Tá Nhiễu được coi là người thân của gia đình phó TT Thơ và ông Thơ đề bạt cho về làm tỉnh trưởng nơi quê hương của ông. Ông Nhiễu làm tỉnh trưởng tỉnh này khá lâu. Sau vì một vụ “sì căng đan tình ái” ông Nhiễu bị mất chức. Vì sì căng đan này đã làm sôi nổi dư luận miền Tây. Nội vụ đại cương: Một sĩ quan cao cấp của Hòa Hảo bị bắt. Ông ta có một cô vợ khá nhan sắc… Nghe đâu trong một dịp ông Nhiễu gặp mặt mụ này làm ầm lên, gây sì căng đan lớn… không hiểu trong vụ Hòa Hảo có âm mưu hạ uy tín ông Nhiễu hay không?
Ông bị thuyên chuyển và Thiếu Tá Nguyễn Văn Minh được thay thế. Thiếu Tá Minh là một sĩ quan trẻ, cũng có ít nhiều liên hệ với Phó TT Thơ. Trước khi được làm Tỉnh Trưởng Long Xuyên, ông Minh là Thanh Tra Bảo An tại mấy tỉnh Hậu Giang. Sau vụ này, Phó TT Thơ tỏ ra phiền muộn không ít. Thiếu Tá Minh bị “phe” của PTT Thơ nghi ngờ là người của ông Nhu. Đó cũng là lý do sau ngày 1-11-63 ông Nguyễn Văn Minh bị “hành hạ” khá nhiều trước khi đi làm Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh (1966).
Còn một chuyện “phiền muộn” khác nữa chẳng hạn năm 1957 Thiếu Tá Nhan Minh Trang bị mất chức Tỉnh Trưởng Rạch Giá. Tuy Phó TT Thơ không nói ra, nhưng coi đó như một điều phiền muộn.
Thiếu Tá Trang gọi PTT Thơ là “dượng ruột” (sau đảo chánh được thăng Đại Tá và từng là chánh văn phòng của Thủ Tướng Thơ sau là Tỉnh Trưởng Gia Định). Về vụ này, chính đương sự là Thiếu Tá Trang không lấy làm gì bất mãn vì lỗi không do ông mà do sự “lem nhem” của ông Trưởng Ty Quan Thuế. Nhưng do sự không khéo của chính quyền khi lựa chọn người thay thế, đã không hỏi ý PTT Thơ, vì ông Thơ vẫn cho rằng mình thông thạo am tường dân miền Tây, nhất là 3 tỉnh Rạch Giá, Châu Đốc, Long Xuyên. Đó cũng là một điều làm ông Thơ không hài lòng chính quyền hồi đó đã thiếu kinh nghiệm tâm lý quần chúng và địa phương nên thay vì bổ nhiệm một tỉnh trưởng sinh trưởng tại miền Tây thì lại cử Trung Tá Hoàng Lạc là người Bắc di cư. Kinh nghiệm cho biết phàm những tỉnh miền Tây hay miền Đông đã có một sắc thái đặc biệt thì chính quyền không bao giờ bổ nhiệm một ông tỉnh trưởng người Bắc hay người Trung đó không phải là sắc thái địa phương đòi phải làm như vậy nếu muốn ông tỉnh trưởng “được việc” và chiếm được lòng dân. Bổ nhiệm Trung Tá Hoàng Văn Lạc có thể chính quyền hồi đó cho rằng Rạch Giá với khu định cư Cái Sắn phải gắn bó chặt chẽ với khối dân di cư thì ông Tỉnh trưởng là người Bắc sẽ thuận tiện hơn. Cũng cần ghi nhận: Thiếu Tá Nhan Minh Trang rất có công lao trong sự thành lập khu Dinh Điền Cái Sắn.
Dù vậy đã tạo nên một số ngộ nhận nhất là Trung Tá Lạc trước khi làm tỉnh trưởng lại là Tư Lệnh Lữ Đoàn LBPVTT.
NGỒI CHƠI XƠI NƯỚC
Tuy nhiên, sự việc không đơn giản như vậy. Đối với ông Thơ, chính quyền “của ông” lại gây cho ông một sự hiểu lầm to lớn hơn khác là khi chính phủ cải tổ ngày 28-5-1961, ông Thơ bị mất chức Bộ Trưởng Kinh Tế cho dù ông được nâng lên hàng Bộ Trưởng đặc nhiệm phối hợp phát triển kinh tế. Nhưng ông Thơ lại cho rằng chức đó chỉ “ngồi chơi xơi nước”…Ông đã hoàn toàn mất thực quyền về kinh tế. Tại một quốc gia tiến bộ, và trong một chế độ tiến bộ thì người lãnh đạo phải là người hoạch định và phối hợp kế hoạch chứ không thể là người chỉ biết cúi đầu thi hành kế hoạch. Nhưng một nước chậm tiến như VN người “lãnh đạo” không chịu như vậy họ chỉ thích đóng vai trò “thừa hành” để được thượng cấp sai khiến thuộc cấp.
Từ một tâm lý lãnh đạo như vậy, nên chức Bộ Trưởng đặc nhiệm phối hợp đã chả được “nước nôi” gì. Hơn nữa, người thay ông Thơ lại còn quá trẻ “tức ông Hoàng Khắc Thành ” (em Kỹ Sư Hoàng Kinh tốt nghiệp cao học thương mại) Nhất là ông Thành lại thuộc giới khoa bảng, mới hồi hương.
Trong khi đó ông Thơ tuy là đốc phủ sứ song không phải là dân khoa bảng.
Ông Thành lại là người Bắc và bị coi là tay chân của Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần. Ông Thành là người trẻ có khả năng, tính tình thẳng thắn, nhưng lại khá vụng về trong thuật xử thế nên ông Thơ cho rằng ông Thành đi thẳng với Phủ Tổng Thống về mọi vấn đề kinh tế, qua mặt ông Phó TT đặc nhiệm kế hoạch KT.
Từ những sự kiện lặt vặt như vậy đã tạo cho Phó TT Thơ có mặc cảm bị tước đoạt quyền hành và ông cho rằng phe ông Nhu đã “chơi” ông.
Khi ông Thơ không còn làm Bộ Trưởng Kinh Tế thì ông Ngô Trong Hiếu lại được cân nhắc lên làm Bộ Trưởng Công Dân Vụ một tay quán xuyến ba ngành Thông tin, Thanh Niên và Công Dân Vụ (thực tế thì chỉ có ngành Công Dân Vụ) ông Hiếu được coi là người của ông Nhu và mỗi ngày càng được chế độ tin dùng. Có lẽ đó cũng là lý do khiến cho đôi bạn Thơ, Hiếu mỗi ngày thêm xa cách nhau.
Kể từ chiến dịch Rừng Sát uy tín của Tướng Minh mỗi ngày một tăng cường trong quân đội. Uy tín đó phải công nhận rằng, guồng máy tuyên truyền (báo chí-đài phát thanh ) của chế độ cũ đã có công phát triển và hào quang hóa “anh hùng Rừng Sát” nhất là từ đêm liên hoan tại trường Pétrus Ký (1956) các đoàn thể đã không tiếc lời ca tụng Tướng Minh và các chiến sĩ Rừng Sát. Tướng Minh lại biết “tự làm vắng mặt mình” khi thấy cần, ít ồn ào và trầm lặng khó hiểu cho nên “huyền thoại Rừng Sát miền Tây” lại càng có dịp thêu hoa lá trong quân đội nhất là giới sĩ quan trẻ.
Trước năm 1963 Tướng Minh cũng chỉ đủ túc dụng hàng ngày không nghèo không giàu đó là ưu điểm để tăng cường uy tín của ông trong giới trẻ.
NGÀI NGOẠI TRƯỞNG
Như đã viết trên, nhiều tướng tá nhờ sự đề bạt của PTT Thơ nên suốt 9 năm của chế độ Ngô Đình Diệm đã được hưởng mũ áo xênh xang. Điển hình là ông Albert Nguyễn Cao.
Ông Cao khi là sĩ quan cấp Úy đã từng là sĩ quan tùy viên của Tướng Nguyễn Văn Hinh. Đáng lý ra khi Tướng Hinh đại bại thì ông Cao cũng khó lòng tiến thân được. Nhưng rồi nhờ “uy thế” của ông Thơ, Thiếu Tá Cao từ Trưởng Khu Dinh Điền Cao Nguyên leo lên Tổng Ủy Trưởng Dinh Điền. Thời Nguyễn Khánh được phong Chuẩn Tướng và Đổng Lý Văn phòng của tướng Khánh.
Bức tranh “vân cẩu” của thế sự đã diễn ra bao nhiêu “hình thù” hào quang một phút rồi đen tối cũng chỉ một phút.
Đã có bao nhiêu huyền thoại xây trên đổ vỡ và cái hèn mọn nhất của con người. Cũng nên nhắc lại nhân dịp nhắc đến “huyền thoại” này “huyền thoại” kia…trong 7, 8 năm làm Ngoại Trưởng thì GS Mẫu cũng là một huyền thoại, GS Mẫu vì được “ông cụ” kính nể. Cho nên mọi người cũng kính nể có khi đến độ “thần thánh” nhà trí thức đại khoa bảng này.
GS Mẫu là một luật gia uyên thâm Thạc Sĩ Tư Pháp Giáo Sư thực thụ Đại Học Luật Khoa Saigon). Sự ăn nói mạch lạc và cách đi đứng đàng hoàng của ông ta đã dễ dàng thu hút được cảm tình và sự kính nể của TT Diệm. Nhưng ông Diệm đã “vỡ mộng” đau điếng người khi ông Mẫu “xuống tóc” cho đến lúc sau này TT Diệm vẫn biện minh cho lòng kính nể ông Mẫu “Ngài đàng hoàng đấy, nhưng phải làm thế chỉ vì ngài nể bà Ngoại Trưởng” (ông Mẫu là người thứ hai sau ông Thơ được ông Diệm gọi là Ngài). Số là, giới cận thần tại Dinh Gia Long và Bộ Ngoại Giao bấy giờ cho biết: ông Ngoại Trưởng rất “vị nể” phu nhân. Phu nhân lại đau yếu luôn luôn vì bị mất một lá phổi. Phu nhân cũng như gia đình Ngoại Trưởng rất mộ đạo Phật. Thế nhưng trong vụ Phật Giáo trước tháng 8, NT rất im lặng, phục vụ.
Buổi sáng này 20-8 Ngoại Trưởng Mẫu còn hướng dẫn tân Đại Sứ Anh đến trình uỷ nhiệm thư tại Dinh Gia Long. Ông đã bày tỏ thái độ hoàn toàn đồng ý với chính phủ. Song buổi chiều ngày 21-8 đột nhiên ông Ngoại Trưởng lại xuống tóc phản đối. Đó là một hành động đẹp theo tinh thần kẻ sĩ Phương Đông. Nhưng dư luận lại cho rằng, ông phải làm như thế vì phu nhân làm áp lực quá dữ dội. Sau này, ông Nguyễn Đình Thuần thuật lại: “Nếu ông ấy xuống tóc và xin đi hành hương, nhưng đừng làm cái việc cố “vận động chạy chọt để đổi thật nhiều dollars, ba, bốn ngàn gì đó, thì cũng còn coi được“. Ông Thuần mà phê bình GS Mẫu như thế thì kể cũng hơi kỳ (Theo dự luật tại Viện Hối Đoái thì Phủ Tổng Thống chỉ thị Viện này để GS cựu Ngoại Trưởng được đổi 5000 dollars).
Vì tiếng súng đảo chánh bùng nổ, ông Thuần với tư cách Bộ Trưởng Quốc Phòng (phụ tá QP kiêm Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống) song lại chuồn lẹ nhất đến nỗi trong Dinh không còn biết ông ở đâu để liên lạc.
CHÁY NHÀ RA MẶT CHUỘT
Đêm 1-11, ông Thuần và Nguyễn Lương là hai Bộ Trưởng đến trình diện tại HĐQNCM sớm nhất. Một vị tướng phê bình “Cháy nhà mới ra mặt chuột. Chế độ ông Diệm sụp đổ cũng chỉ vì có những Bộ Trưởng như vậy. Khi đến trình diện thì rụt dè khúm núm quá, chả bù khi còn thét ra lửa“.
Nhờ sự đầu hàng sớm như vậy, cũng như sự khúm núm rụt rè, sợ hãi hai ông được HĐQNCM cho về nhà thong dong. Ít lâu sau, ông Thuần qua Pháp, vì vợ con ông đã ở sẵn bên đó. Ông Nguyễn Lương được thong dong đến một năm sau, thời tướng Khánh, ông bị bắt vì tội Cần Lao. Thật là số mệnh an bài…trước đó thì chả sao. Ông Nguyễn Lương bị đưa vào Khám Chí Hòa hôm trước, thì hôm sau ông bị đưa lên xe bịt bùng ra máy bay trực chỉ Côn Sơn.
– Ơ? Tôi đâu có tội gì? Riêng Hoa Kiều Mã Tuyên bị lao lý trước, ông Lương hàng năm trời, nhưngTuyên vẫn cam phận “tội thì tội chớ”
CÁI GAI CẦN NHỔ
Chính phủ Nguyễn Khánh kết tội ông Nguyễn Lương là cán bộ cáo cấp của Cần Lao quả là bóp méo sự thật. Ông Lương thuộc hàng quan lại cũ – Năm 1955, ông đã lên đến ngạch Chưởng Lý Tòa Thượng Thẩm. Khi GS Vũ Quốc Thông giữ chức Bộ Y Tế và Xã Hội thì ông Nguyễn Lương làm Tổng Giám Đốc Xã Hội (viên chánh văn phòng của ông là Hoàng Thế Phiệt sau trở thành Nghị Sĩ của Thượng Viện Đệ II Cộng Hòa) – Khi Nha Tổng Giám Đốc Xã Hội tách ra khỏi Bộ Y Tế và trực thuộc Phủ Tổng Thống thì đây là dịp ông Lương được gần TT Diệm. Nhờ tài ăn nói lưu loát và am tường pháp luật, ông Lương rất được TT Diệm tín nhiệm. Đứng trước TT Diệm ông luôn chấp tay cung kính. Ông trở thành cố vấn Pháp Luật của TT Diệm và sau được bầu làm Chủ Tịch Liên Đoàn Công Chức Cách Mạng Quốc Gia.
Cái chết của TT Diệm mang theo sự sụp đổ của chế độ Đệ I Cộng Hòa đồng thời tố cáo luôn bộ mặt thực của một số thư lại gia nhân. Chính họ đã góp công lật đổ, trước hết vẫn là một thảm kịch đó đã kéo dài trên một thế kỷ. Những viên đạn nổ vào đầu Ông Diệm chỉ là kết quả của bao nhiêu mâu thuẫn nội bộ của những ưu điểm và nhầm lẫn, của sự phân hóa trong hàng ngũ Quốc Gia, và đồng thời cũng là kết quả của cuộc hôn nhân miễn cưỡng giữa Mỹ và Việt xa hơn nữa là sự “thọc gây bánh xe” của Pháp và gần nữa là Cộng Sản. Đối với CS thì ông Diệm hay ai cũng thế thôi đều là kẻ thù của họ, nếu bản chất là quốc gia.
Người quốc gia tiến bộ và thực tâm yêu nước, biết bảo vệ chủ quyền thì lại càng trở thành kẻ thù nguy hiểm nhất của CS. Năm 1945-1946, CS đã không giết Tổng Đốc Hồ Đắc Điềm hay hung thần Vi Văn Định, song họ đã phải thanh toán ngay Lê Ninh (lãnh tụ VQ-Dân chúng dạo ấy đã có câu: Việt Quốc Lê Ninh, Việt Minh Trần Văn Giầu) Một Phan Văn Hùm, Một Tạ Thu Thâu cùng bao nhiêu người quốc gia khác. Cộng Sản đã sửa soạn cho Ông Diệm một cái chết theo kỹ thuật đoản kỳ và trường kỳ của họ kể từ năm 1954 khi ông ở hải ngoại về nước chấp chánh.
Thực dân Pháp cũng đã chuẩn bị cho ông một “cái chết” từ khi Trần Đình Lan đang cầm quyền phòng VI và biệt đội Con Ó (1954). Từ đầu năm 1963, một số người Mỹ cũng bắt tay vào làm công việc ấy. Năm 1963 con số cố vấn Mỹ tại miền Nam đã lên đến 14.000 người đồng thời tại Bộ Ngoại Giao Mỹ thành lập một Ủy Ban Nghiên Cứu hỗn hợp về xử dụng “sức mạnh” của Mỹ tại Việt Nam , Ủy ban ấy mang một danh xưng thật đẹp “Việt Nam Task Force” mà người đứng đầu là Hislman. Vấn đề chủ quyền quốc gia đối với TT Diệm đã trở thành đầu mối cho tấm thảm kịch Việt Mỹ. Nếu Hislman đặc trách Á Châu sự vụ có phận sự nghiên cứu những phương thức Mỹ nhằm tiêu diệt CS tại Việt Nam, thì song hành với công việc này Hislman cũng đã “sửa soạn” theo kỹ thuật của Mỹ để “hạ” một Tổng Thống cứng đầu như ông Ngô Đình Diệm. Lu Conein cũng như Smith và Hislman, Fishtel nghĩa là cả guồng máy CIA đã góp công vào sự sửa soạn này.
No comments:
Post a Comment